Hôm nay,  

Anh yêu ai?

08/02/202308:41:00(Xem: 3540)
Truyện

alley-in-saigon


Không biết tình cờ hay cố ý anh Phượng gặp tôi ngay đầu hẻm khi tôi đi học về, anh chặn xe đạp tôi lại, hỏi:

 

– Em Bông, chiều nay đi ăn chè với anh không?

 

Bất ngờ quá tôi bối rối và ăn nói…vô duyên như thường lệ:

 

– Chè… gì anh?

 

Nghĩ tôi là con nhỏ ham ăn chắc, anh liệt kê một mớ chè hấp dẫn:

 

– Chè đậu xanh bột khoai nước dừa đường cát trắng, chè sương sa hột lựu, chè trôi nước, chè…

 

Tôi cản lại:

 

– Anh khỏi kể, em ăn hàng bấy lâu nay có bao nhiêu loại chè em biết hết rồi, nhưng…

 

– Anh năn nỉ mà, lâu lâu anh mới về phép thăm.

 

Tôi hồi hộp, vô duyên lần nữa, cướp lời anh:

 

– Thăm gì hả anh?

 

– Thăm nhà và thăm xóm mình chứ còn gì nữa. Anh nhớ mấy gánh chè trên chợ Hạnh Thông Tây…

 

May quá tôi cũng nói được một câu… bình thường:

 

– Để em suy nghĩ, trả lời anh sau.

 

Anh tự tin dễ sợ:

 

– Anh cứ đợi em ở mấy gánh chè trên chợ lúc 7 giờ chiều nha.

 

Tôi đạp xe về nhà với cõi lòng lâng lâng. Chẳng biết từ lúc nào tôi đã thương mến thầm anh Phượng hàng xóm, anh hơn tôi chừng 7, 8 tuổi, hát hay đàn giỏi, thỉnh thoảng buổi tối anh ngồi trước cửa nhà đàn hát, tiếng hát ngọt ngào của anh đã rót vào trái tim 16 tuổi trăng tròn của tôi những tình cảm bâng khuâng. Anh đi lính, xóm vắng anh, vắng cả những đêm khuya tiếng hát tiếng đàn.

 

Hôm nay anh về phép gặp tôi và rủ đi ăn chè có… tình ý gì đây? Trước giờ anh có để ý gì đến tôi đâu, hay là bây giờ anh đã… chuyển hướng yêu tôi? Tôi muốn đi ăn chè với anh lắm, tôi tưởng tượng anh Phượng và tôi hẹn hò cùng sánh vai từ nhà đi bộ lên chợ Hạnh Thông Tây, anh sẽ nói gì với tôi nhỉ? Và cuộc ăn chè để chúng tôi được dịp tâm tình?

Nhưng tôi chưa biết sẽ đi bằng cách nào, ở nhà tôi vẫn phải kè kè trông em, bế em, lấy lý do gì nói với mẹ để rời khỏi nhà cả tiếng đồng hồ.

 

Tôi muốn hỏi ý kiến nhỏ bạn thân cùng xóm Bích Hợp, điều gì nó cũng giúp tôi tìm ra đáp số nhưng điều này thì không thể vì Bích Hợp hình như cũng có cảm tình với anh Phượng. Có những khi Bích Hợp sang nhà tôi chơi nói chuyện đến khuya, hai đứa đang ríu rít cùng… im bặt khi vẳng nghe tiếng hát anh Phượng hàng xóm vọng sang. Bích Hợp đã mơ màng:

 

– Anh ấy hát hay quá!

 

Nếu anh Phượng yêu tôi, Bích Hợp sẽ buồn biết bao!

 

Tôi ăn cơm xong định sang nhà Bích Hợp thì nó đã sang nhà tôi, nét mặt nó có vẻ bồn chồn lạ lắm. Tôi chẳng dám mở lời nói chuyện của mình thì Bích Hợp nói trước:

 

– Bông nè, anh Phượng rủ tao chiều mai đi ăn chè trên chợ Hạnh Thông Tây, tao chưa biết trả lời sao nên hỏi ý kiến mày.

 

Tôi giật mình, khai luôn:

 

– Anh Phượng cũng rủ tao chiều nay đi ăn chè, tao cũng chẳng biết trả lời sao. Thì ra anh rủ cả hai đứa nhưng mỗi đứa một buổi chiều khác nhau.

 

Nghe xong Bích Hợp thoáng thất vọng và phân vân:

 

– Vậy thì giữa hai đứa mình, anh ấy… yêu ai? Mình phải ba mặt một lời hỏi cho ra lẽ, không để anh bắt cá hai tay.

 

Thì ra Bích Hợp cũng yêu thầm anh Phượng nhiều chẳng kém gì tôi. Tôi đồng tình:

 

– Anh Phượng phải chọn một trong hai và tình bạn chúng mình vẫn không thay đổi nha.

 

– Ừ, sòng phẳng và rõ ràng. Tao thề thà hi sinh tình yêu chứ không hi sinh tình bạn.

 

Tôi cảm động:

 

– Tao cũng thề tình bạn là trên hết.

 

Hai đứa bàn nhau không đi ăn chè với anh, cho anh chờ mỏi mòn và ăn chè một mình, đáng đời về cái tội dám yêu hai đứa tôi cùng lúc dù anh biết chúng tôi chơi thân nhau như thế nào rồi.

Chiều hôm sau tôi và Bích Hợp lượn qua lượn lại trước cửa nhà anh, mong gặp anh để hỏi vụ anh mời đi ăn chè, để bắt anh xác nhận anh yêu ai nhưng chẳng thấy bóng dáng anh đâu. Thế rồi anh Phượng trở về đơn vị hồi nào chúng tôi không hay. Chắc anh ra đi với cõi lòng tan nát vì cùng một lúc bị hai đứa chúng tôi đối xử phũ phàng?

 

*

 

Cuối năm vào dịp Giáng Sinh anh Phượng lại về phép thăm nhà, chàng lính chiến dáng to cao uy nghi trong quân phục thoáng qua nhà làm tôi lại bâng khuâng xao xuyến. Bích Hợp sang nhà tôi rộn rã báo tin:

 

– Anh ấy đã về.

 

Nghe giọng nói reo vui và đôi mắt Bích Hợp long lanh, tôi bỗng chạnh buồn. Bích Hợp đã chờ mong anh như tôi đã chờ mong.

 

– Không biết anh Phượng có rủ mình ăn chè nữa không nhỉ?

 

Bích Hợp cương quyết:

 

– Dù thế nào chúng mình cũng phải gặp anh ấy, bắt anh phải trả lời câu hỏi mà anh còn nợ mình: Anh yêu ai?

 

Tin anh Phượng đưa người yêu về ra mắt mẹ anh đã lan truyền trong xóm, cô này theo đạo Thiên Chúa trong khi gia đình anh đạo Phật, mẹ anh không hài lòng. Tôi và Bích Hợp nghe tin này cả hai đứa đều ngạc nhiên và buồn ủ ê. Buồn là buồn cho anh, chắc anh thất tình hai đứa tôi nên đành lòng tìm người yêu khác dù bất đồng tôn giáo, dù làm mẹ anh buồn phiền.

 

Hai đứa quyết chí gặp anh, không để anh âm thầm ôm khổ đau trở về đơn vị như lần trước nữa. Tôi và Bích Hợp loanh quanh ở đầu ngõ nhà anh, canh chừng nếu anh bước ra khỏi nhà sẽ không thoát khỏi chúng tôi. Dĩ nhiên là chúng tôi toại nguyện, vừa thấy anh Phượng đi tới chúng tôi đã nhào theo rối rít gọi:

 

– Anh Phượng ơi! Anh Phượng!

 

Anh dừng chân ỡm ờ:

 

– Hai đứa muốn rủ anh đi ăn chè hả?

 

Bích Hợp lanh chanh vào đề ngay:

 

– Tụi em phục kích anh ở đây để hỏi tội anh mời riêng rẽ từng đứa em đi ăn chè mấy tháng trước đó.

 

Tôi sầu bi và sưng sỉa dỗi hờn:

 

– Anh mời em đi ăn chè là anh yêu em sao còn mời Bích Hợp đi ăn chè?

 

Anh thảng thốt kêu lên:

 

– Ủa… Ủa…

 

Bích Hợp sốt ruột cướp lời anh:

 

– Ủa, ủa cái gì. Vậy thì anh yêu ai? Đừng có nói là anh yêu cả hai đứa em nha.

 

– Ủa… Ủa…

 

Đến lượt tôi cắt ngang không cho anh nói hết câu:

 

– Thôi anh đừng có “ủa ủa” nữa, bọn em hiểu rõ lòng dạ anh rồi.

 

Anh mở to mắt nhìn hai đứa tôi và không nhịn được cười:

 

– Ủa, ủa… Bộ cứ rủ đi ăn chè là yêu hả? Nghe nè hai đứa, anh đi lính xa nhà, xa bao kỷ niệm, anh nhớ những gánh chè trên chợ Hạnh Thông Tây xóm mình và muốn rủ người đi ăn cùng cho vui, anh mời riêng em Bông, rồi mời riêng em Bích Hợp là anh muốn… thử lòng hai cô bé chơi thân với nhau, gắn bó nhau không rời sẽ phản ứng thế nào. Kết quả anh đã biết rồi, hai cô bé cho anh “leo cây” và tình bạn vẫn bền vững. Chúc mừng hai em. Thôi anh có chuyện bận, anh đi đây.

 

Hai đứa tôi ngẩn ngơ nhìn nhau không nói nên lời. Chập tối, mẹ sai tôi đi tìm đứa em 5 tuổi đang chơi nhà hàng xóm. Thấy em đứng trước cửa nhà anh Phượng tôi liền đến gọi nó về. Nhưng vừa đến sát cửa thì tôi nghe có tiếng cãi cọ, là tiếng mẹ anh Phượng chì chiết:

 

– Con về phép chọn dịp lễ Giáng Sinh để đi lễ nhà thờ với người yêu. Con mê nó đến thế cơ à!!!

 

– Chúng con yêu nhau cả năm nay rồi mẹ, cô ấy ngoan hiền lắm.

 

Mẹ anh vẫn to tiếng:

 

– Nhưng mẹ không thích người khác tôn giáo. Xóm mình thiếu gì con gái cũng ngoan cũng hiền. Thí dụ như con Bông, con Bích Hợp đấy. Mẹ thấy con hay chuyện trò vui vẻ với chúng nó lắm mà, sao không chọn một đứa?

 

Tiếng anh Phượng dứt khoát:

– Hai con nhỏ ngố này con coi như em út trong nhà mẹ ơi, một đứa thì xớn xác vô duyên một đứa thì lanh chanh hóng hớt, yêu gì nổi. Con nói chuyện với hai đứa là thường tình hàng xóm láng giềng thôi.

 

Nghe tới đây tôi tự ái chịu hết nổi vội bế thốc đứa em về cho nhanh, không thèm nghe lén nữa.

 

Vụ anh Phượng rủ tôi và Bích Hợp đi ăn chè, anh chỉ đùa cợt cho vui vậy mà suốt mấy tháng trời hai đứa tôi cùng ôm mộng, hí hởn tưởng bở anh ấy yêu mình. Nhưng tôi và Bích Hợp bỗng vui mừng sung sướng khi anh chẳng yêu ai, Bông hay Bích Hợp, vì nếu anh yêu một trong hai đứa thì biết đâu tình bạn chúng tôi sẽ vơi đi?

 

– Nguyễn Thị Thanh Dương

(Jan. 22, 2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.