Hôm nay,  

Valentine's Day -- Thơ tình

14/02/202307:34:00(Xem: 2522)

Valentine's Day 

 

lovers-in-the-lilacs
Lovers in the Lilacs (1930) -- Tranh Marc Chagall.



Gặp gỡ (*)

BORIS PASTERNAK

(Nga)

 

Tuyết rơi ngập kín cả đường

Mái ngói nhà nhà tuyết phủ

Anh vừa đứng dậy duỗi chân

Em đứng bên ngoài khung cửa.

 

Em khoác chiếc áo mùa thu

Không giày, không cả nón mũ

Chừng như em đang phấn khích

Chống chọi cơn rét co ro.

 

Xa xa, hàng rào, cây cối

Chìm dần trong bóng tối mờ

Em đứng nép mình trong góc

Dưới màn tuyết trắng âm u.

 

Luồn theo hai bên tay áo

Nước chảy từ tấm khăn vuông

Trên mái tóc em, rất nhỏ

Lấp lánh từng giọt tuyết sương.

 

Dáng người và cả khuôn mặt

Áo mùa thu với khăn choàng

Hình ảnh của em rất thật

Đang được chiếu sáng rỡ ràng.

 

Trên đôi mi em tuyết ướt

Mắt em thoáng một nét buồn

Chỉ qua từng đường nét nhỏ

Em đà hiển hiện toàn thân.

 

Bút sắt nhúng vào hoá chất

Bằng cả nghệ thuật tuyệt vời

Tim anh có ai đã khắc

Hình em từng nét rạng ngời

 

Đường nét đơn sơ khiêm tốn

Vẫn còn lưu giữ rất lâu

Dẫu đời chua cay ác độc

Cũng không phai nhạt sắc màu.

 

Vào đêm tuyết lạnh hôm ấy

Thế là mọi thứ nhân đôi

Mặc ai phân chia ranh giới

Giữa hai chúng mình em ơi.

 

Ta là ai, từ đâu tới

Và rồi cũng phải ra đi

Nếu qua chuỗi ngày hiện tại

Chỉ còn những tiếng thị phi.

 

(*) Nhan đề dịch theo bản tiếng Anh. Tham khảo nguyên tác tiếng Nga, bài này có tên là Cвидание, (Hẹn hò).

 

*

 

Khi anh ngủ

JACQUES PRÉVERT

(Pháp)

 

Đêm anh ngủ yên giấc

còn em cứ thao thức

em nhìn anh ngủ ngon

mà lòng thấy đau buồn.

 

Mắt anh nhắm thân anh to lớn duỗi dài

Trông ngộ nghĩnh nhưng lại làm em khóc

và bỗng nhiên anh bật lên cười

anh cười vang khi vẫn còn thiếp ngủ

anh ở đâu ngay trong giờ phút đó

và thực ra anh đã tới nơi đâu

chắc là cùng một cô nào khác

đến một xứ nào khác thật xa

và anh đang cười về em với cô ta.

 

Đêm anh ngủ yên giấc

còn em cứ thao thức

em nhìn anh ngủ ngon

mà lòng thấy đau buồn.

 

Khi anh ngủ em nào biết anh có yêu em

anh thật gần mà như xa biết mấy

em lõa thể nép sát người anh đấy

mà tưởng chừng như không ở bên anh

thế nhưng em vẫn nghe tim anh đang đập

em đâu biết nó có đập vì em

em không biết gì em không biết nữa

em chỉ muốn tim anh ngừng đập

nếu mai kia anh không còn yêu em.

 

Đêm đến anh nằm mơ

còn em cứ thao thức

em nhìn anh nằm mơ

điều đó làm em khóc.

 

Đêm nào em cũng khóc suốt đêm

còn anh cứ nằm mơ và mỉm cười

nhưng điều đó không kéo dài được nữa

rồi đêm nào chắc chắn em sẽ giết anh

những giấc mơ của anh sẽ kết thúc

và bởi em rồi cũng sẽ tự sát

chứng mất ngủ của em sẽ chấm dứt luôn

thi thể hai chúng ta sẽ hợp lại

ngủ cùng nhau trên chiếc giường lớn của đôi ta.

 

Đêm đến anh nằm mơ

còn em cứ thao thức

em nhìn anh nằm mơ

điều đó làm em khóc.

 

Kìa trời sáng và đột nhiên anh thức giấc

và với em anh chợt nở nụ cười

anh mỉm cười với ánh nắng mặt trời

và em không nhớ về đêm tối nữa

anh lại nói những lời quen thuộc

“Đêm qua em ngủ có ngon không”

Và em trả lời như đêm hôm trước

“Vâng anh yêu em đã ngủ rất êm

Và đã mơ về anh như từng mơ hằng đêm”.

 

*

 

Đoạn rời một lá thư  

JAROSLAV SEIFERT

(Cộng hoà Séc)

 

Mưa suốt đêm tạt vào cửa sổ

Không thể nào ngủ

Tôi trở dậy bật đèn

Ngồi viết một lá thư.

 

Nếu tình yêu có thể bay xa

Điều tất nhiên chẳng xảy ra

Và nó cũng không mấy khi ở gần mặt đất

Hẳn nó sẽ cảm thấy mê say được ấp ủ

Trong cơn gió nhẹ thoảng qua.

 

Nhưng giống như những con ong giận dữ

Dồn những chiếc hôn ghen tị

Trên cơ thể con ong cái ngọt ngào

Và một bàn tay nóng vội

Níu chặt những gì có thể với tới

Và lòng khao khát thì chẳng hề suy giảm

Ngay cả cái chết cũng có thể xảy ra

trong khoảnh khắc hân hoan

mà không hoảng sợ 

 

Nhưng nào ai đã một lần tính được 

Bao nhiêu yêu thương gởi gắm

Trong đôi vòng tay rộng mở.

 

Những lá thư gửi cho phụ nữ

Tôi vẫn chuyển qua cánh chim bồ câu

Ý thức tôi vẫn luôn sáng tỏ

Chẳng bao giờ nhờ cậy diều hâu

Và cũng không nhờ chim ó đâu!

 

Dưới ngòi bút tôi thơ không còn bay nhảy

Và như giọt lệ đọng lại nơi khóe mắt

Con chữ còn treo lại đàng sau.

Và cuộc đời tôi, đến thời kỳ cuối,

Giờ chỉ là chuyến hành trình hối hả trên con tàu.

 

Tôi đứng trong toa, bên cửa sổ

Ngày qua ngày

Chạy ngược về quãng thời gian qua

Để lẫn vào đám bụi mờ u sầu

Có nhiều lúc tôi bất lực nắm lấy

Cái phanh cấp cứu của con tàu.

 

Có lẽ sẽ thêm một lần tôi bắt gặp

Nụ cười một người phụ nữ,

Đọng lại nơi mí mắt

Như một cánh hoa héo hắt.

Có lẽ tôi sẽ còn được phép

Gởi đến đôi mắt nàng ít nhất là một nụ hôn

Trước khi chúng lạc mất trong bóng tối đen.

 

Có lẽ sẽ thêm một lần tôi nhìn thấy

Một mắt cá chân thon nhỏ

Nổi lên như viên ngọc

Toát ra vẻ dịu dàng ấm áp,

Khiến tôi gần như nghẹt thở vì khát khao.

 

Bao nhiêu điều con người đành bỏ lại phía sau

Khi chuyến tàu dửng dưng tiến lại gần

Ga Quên Lãng

Với khu vườn lan nhật quang lung linh mờ ảo

Trong hương hoa mọi thứ đều bị lãng quên

Kể cả tình yêu nhân thế.

 

Đây đã là ga cuối:

Con tàu không đi xa hơn.

 

*

 

Chạm cánh thiên thần

MAYA  ANGELOU

(Hoa Kỳ)

 

Chúng ta, thôi không quen dũng cảm,

Đoạn lìa hẳn mê say,

Sống cuộn mình trong cái vỏ đơn côi,

Cho đến khi tình yêu rời ngôi bảo tháp

Hiện ra trước mắt

Giải thoát ta đưa về cuộc sống.

 

Tình yêu đến

Chở theo bao hạnh phúc ngất ngây

Hoài niệm hoan lạc cũ

Hồi ức đau thương xưa

Tuy nhiên nếu ta bạo dạn

Tình yêu tháo gỡ xiềng xích hãi sợ

Từng trói buộc hồn ta.

 

Ta dứt được thói e dè

Trong niềm phấn khích của hào quang tình ái

Ta mạnh dạn không còn sợ hãi

Và bất chợt ta sẽ nhận ra

Rằng tình yêu trang trải hết cho ta

Bây giờ và mãi mãi.

Chỉ có tình yêu

Mới ban cho ta tự do.

 

*

 

Tiếng em cười

PABLO NERUDA

(Chile)

 

Nếu em cứ muốn lấy đi không cho anh thức ăn,

Lấy đi cả không khí, nhưng

Đừng lấy đi tiếng em cười khỏi anh.

 

Đừng lấy đi đoá hồng,

Nụ hoa em đã hái

Giọt nước bất chợt

Vui mừng bắn toé ra

Con sóng bạc

Tình cờ hiển lộ nơi em.

 

Cuộc đấu tranh gian lao và anh trở về,

Với đôi mắt mệt mỏi

Vì nhiều lúc đã phải nhìn

Trái đất chẳng hề thay đổi

Nhưng khi tiếng em cười

Vang vọng lên không trung tìm kiếm anh

Nó đã mở ra cho anh tất cả

Cánh cửa của nhân sinh.

 

Em yêu, trong giờ phút đen tối nhất,

Tiếng em cười bật ra,

Và nếu bất chợt

Em thấy máu anh nhuộm bẩn

Gạch đá con đường,

Thì em hãy cười lên, vì tiếng em cười

Sẽ là thanh kiếm mới

Trong tay anh.

 

Bên cạnh biển trong mùa thu,

Tiếng em cười hẳn sẽ làm cuộn lên

Dập dồn sóng bạc.

Và, vào mùa xuân, em yêu,

Anh muốn tiếng em cười giống như

Đoá hoa anh hằng chờ đợi,

Đoá hồng xanh vọng tưởng quê hương.

 

Em hãy cười nhạo buổi tối,

Cười ban ngày, cười ánh trăng,

Hãy cười nhạo những con đường

Ngoằn ngoèo trên đảo,

Hãy cười nhạo chàng trai vụng về

Đang yêu em.

Nhưng khi anh

Mở mắt rồi nhắm lại,

Khi anh bước ra đi,

Khi anh bước trở về,

Em có thể khước từ anh thức ăn, không khí,

Ánh sáng, mùa xuân,

Nhưng đừng bao giờ lấy đi tiếng em cười,

Vì anh sẽ chết mất, em ơi!

 

*

 

Tình yêu từ cái nhìn đầu tiên

WISLAWA SZYMBORSKA

(Ba Lan)

 

Cả hai người đều tin

Một cảm xúc bất chợt gắn kết họ với nhau

Niềm tin mới đẹp làm sao

Nhưng sự hoài nghi còn tuyệt vời hơn nữa.

 

Họ vẫn nghĩ bởi trước đó chưa hề quen

Nên giữa hai người chẳng có chuyện gì cả.

Vậy thì nói sao đây, những con đường, cầu thang, hành lang đó

Nơi mà từ lâu lắm có thể họ đã từng lướt qua nhau?

 

Tôi muốn hỏi họ xem

Liệu họ có còn nhớ

Có thể trong một khung cửa quay

Ngày nào họ đã đứng đối diện

Hay nói lời xin lỗi trong đám đông

Hay qua điện thoại báo nhầm số.

Nhưng tôi biết trước câu trả lời của họ

Không họ chẳng nhớ mảy may.

 

Họ sẽ ngạc nhiên biết chừng nào

Khi biết rằng

Sự ngẫu nhiên đùa giỡn họ đã từ lâu.

 

Mà vẫn chưa hoàn toàn sẵn sàng

Trở thành số phận

Kéo họ xích lại gần rồi lại đẩy ra xa

Đứng ngáng đường chặn lối

Kìm nén một tiếng cười

Nhảy tránh sang một bên.

 

Đã từng có những tín hiệu

Chưa nhận ra ngay, chẳng hề chi,

Có thể đã ba năm rồi

Hay chỉ là thứ ba tuần trước

Một chiếc lá khẽ lướt

Từ vai rồi lại đậu sang vai.

Một vật đánh rơi rồi nhặt được

Nào ai biết, có thể là một trái bóng

Trong bụi rậm của tuổi ấu thơ?

 

Đã từng có những tay nắm cửa, những chuông con,

Vết tay ai đặt vào

Chồng lên vết tay người nào trước

Những chiếc va li nằm cạnh nhau

trong kho hành lý

Có thể cùng một giấc mơ trong đêm

Khi thức giấc thì đã vội quên.

 

Nhưng mọi sự khởi đầu

Chỉ là một tiếp nối

Cuốn sách của duyên phận

 

Luôn mở ở giữa chừng.

 

-- Thân Trọng Sơn chuyển ngữ

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.