Hôm nay,  

Tóc mai sợi vắn sợi dài

23/02/202311:16:00(Xem: 3710)
Phiếm

couple-in-love

Cái răng cái tóc là góc con người! Bởi đấy ai cũng thích săn sóc răng cho kỹ, răng có chắc, ăn mới mạnh, mới ngon và mới có sức khỏe. Điều này phải kể mấy ông nha sĩ ở bên tây này cũng khá mạnh tay khi chặt tiền, nếu bạn có răng đau, nhất là răng sâu, phải tìm đến phòng mạch. Cũng kể thêm là khi ta có hàm răng đều đặn, trắng bóng làm tăng thêm giá trị của nụ cười, hiển nhiên. Nụ cười là một trong những biểu tượng của tình yêu! Điều này quan trọng không vừa đâu.

 

Chúng ta còn nhiều thì giờ để nói về cái răng sau, nay hẳng nói về cái tóc nhiều hơn. Cái tóc là góc cao nhất của con người, nhìn thấy một người đối diện ta chú ý ngay xem đầu tóc hắn thế nào. Nhìn một người đầu tóc gọn gàng chải vén khéo, lịch sự, ta ưng bụng ngay, đây là một người đàng hoàng, cẩn thận, bình thường như mọi người bình thường. Đối diện với một người tóc tai gớm ghiếc, lởm chởm hoặc bù xù không chịu chải gỡ, ta có cảm tưởng ngay trước mặt hình như là hiện diện một con bú dù thì phải, theo nghĩa đơn giản người Việt Nam ta gọi đó là bú dù là con khỉ đột, khỉ điên, người càn rỡ, khùng khùng.

 

Xem vậy đầu tóc nên chăm sóc cho kỹ.

 

Khi xưa còn bé, có lần cha mẹ tôi đi dự đám cưới về, tôi lăng xăng một bên tò mò hỏi xem cô dâu có đẹp không ? Mẹ tôi khi nào cũng vui vẻ vồn vã:

 

– Cô dâu đẹp lắm con ạ, cô dâu nào cũng đẹp cả, mai này khi con thành cô dâu con cũng sẽ đẹp như vậy.

 

–  Như mẹ hồi đó hả?

 

–  Không chắc đâu. –  Cha tôi xen vào ngay –  Mẹ mày ngày là cô dâu chẳng mấy đẹp.

 

– Tại sao?

 

– Tại sao à, tại vì mẹ chải cái đầu tóc cao như đội một quả tạ hay cái tổ chim én, coi kỳ kỳ làm sao ấy.

 

– Thế sao lúc đó bố không nói. –  Tôi phản ứng vội vã.

 

– Nói thế nào được lúc đó. Dứt dây động rừng, lúc ấy xung quanh mẹ con bao nhiêu là người, nào bà mợ, bà cô, bà bác, bà thím cô dâu, nom cô dâu nhà ta rõ muôn màu muôn vẻ, bố đâu dám nói, sợ họ giận… thì làm sao xong đám cưới.

 

– Rồi bây giờ?

 

– Giờ thì chịu, lỡ rồi.

 

Mẹ tôi thấy rõ ràng bà bị khiêu khích, bà trả lời không kém cạnh:

 

– Thôi đi, ông ghen thì có, lúc nào chú rể cũng sợ lùn hơn cô dâu.

 

Nói cho vui chứ thật ra là mẹ tôi không thể nào cao hơn bố tôi được. Từ ngày bỏ nước ra đi, mẹ tôi viện cớ phải xông xáo nơi xứ người để kiếm ăn cho dễ nên đầu tóc lúc nào cũng nên chải gọn gàng ở tiệm. Bố tôi ngược lại thích cắt tóc ở nhà, nghĩa là anh em chúng tôi được trang bị có một cây kéo răng lược vừa để cắt vừa để tỉa tóc, thế là phải học nghề mới, nghề cắt tóc cho bố tôi, còn dao cạo thì tạm thời dùng dao cạo râu của người để thay thế. Anh hai tôi khởi sự hành nghề từ khi anh mới 14 tuổi, chỉ cắt và tỉa loanh quanh dưới chân tóc theo đường viền tóc cũ để lại. Mẹ tôi thích, rất thích cái trò cắt tóc ở nhà vì đỡ phải móc túi chi tiền, người bảo bên đây trời lạnh, càng cắt thấp chân tóc bao nhiêu càng khỏi lạnh, khỏi tốn thời giờ quấn khăn quàng hay đội mũ. Cha tôi khi xưa ở trong quân đội, tóc luôn luôn hớt ngắn, giờ thì vẫn hớt nhưng để dài hơn, mặt ông như trẻ lại. Có lẽ ông rất vừa ý được hớt tóc ở nhà nên mua khăn quàng và một tấm gương soi lớn phía trước mặt. Hai bên thì người soi bằng hai tấm gương nhỏ để bàn, người theo dõi rất kỹ những lần đầu tiên thợ cắt tóc nhà làm việc, hơi so le vài sợi tóc khách cũng đòi sửa lại, hễ thợ cạo bên hơi đậm, bên hơi lợt là ông sửa ngay:

 

– Tại sao cạo một bên kỹ quá một bên dối quá hóa ra kỳ, đây phải sửa lại bên này một chút như vậy, như vậy…

 

Ngài dùng gương chiếu phía sau kiểm soát hàng rào sau gáy:

 

– Ấy ấy, còn hơi lệch, phải cắt tỉa thêm chỗ này, đừng cắt nhiều quá, khoan, từ từ, rất từ từ, lỡ tay cắt quá là khó chữa!

 

Anh tôi dẫy nẩy:

 

– Thôi, cắt tóc cho bố mệt quá, bố đi tiệm đi, tụi con chán rồi. Hay là con cho bố tiền hớt tóc cũng được!

 

– Không, bố bảo làm là phải làm, cắt ở nhà lợi hơn.

 

– Con không thấy lợi đâu cả. Thấy mệt quá với bố. Có bao giờ cắt tóc không mất tiền mà khách cứ đòi hỏi, cằn nhằn chủ luôn miệng léo nhéo vậy không?

 

– Rồi dần dần các con sẽ làm khéo hơn, đừng lo, bố không cằn nhằn nữa. Nhưng các con phải làm sao cho bố đi ra đường coi cho được chứ!

 

Lần tiếp đó trong tháng tới, con em út trong nhà nguyện làm thợ hớt tóc. Nó có hoa tay, tỉ mỉ và được tiếng là khéo khi hai bố con ở trong nhà tắm, tạm dùng làm phòng hớt tóc, tịnh không nghe một tiếng cãi cọ nào giửa chủ và thợ. Khi hớt xong, ông đi ra, chỉ nghe tiếng rũ khăn quàng thật mạnh biết là cô út đã hoàn thành công tác. Bố tôi đi ra mặt hơi đỏ, ông thở phào nhẹ nhõm:

 

– Nó làm tao hơi sợ, lúc nào cũng phải giơ hai tay lên che lấy hai cái tai.

 

Tụi tôi nháy nhau cười rồi mỗi đứa đi một ngả. Tạm im. Đến khi cô Tám từ Canada sang thăm gia đình tôi vụ hè thì mọi người lại đem chuyện tóc tai ra kể. Cô Tám sung sướng hả hê hơn:

 

– Tao ấy à, bên đó tao cũng sắm một bộ đồ nghề làm ăn trên đầu trên cổ mấy đứa, mà toàn là mấy thằng cháu rể không à, rể ta, rể tây có hết, cũng có lần tao làm đẹp khỏi chê, cũng có lần tỉa hơi xéo, sửa hoài, sửa hoài coi cũng không ra sao. Kỳ đó thằng Tánh đi làm giữa mùa hè phải mang mũ ni che tai trọn tháng. Có lần tao hớt cho thằng rể Mỹ cao quá, cái đầu làm như trọc lóc, lúc soi gương, nó nản ra mặt mà không dám phàn nàn, chỉ nhắc khéo:

 

– Cháu đã đi quân dịch từ 4, 5 năm trước rồi kìa.

 

Con Vân vợ nó vội an ủi:

 

– Không sao, kỳ sau cô sẽ làm khéo hơn, vả lại tóc của cưng mau dài lắm.

 

Nhưng mà lũ chúng nó vẫn khoái mang đầu đến cho tao hớt, mỗi lần ngồi vào ghế, đứa nào cũng lặp đi lặp lại cả chục lần:

 

– Từ từ, từ từ, cô Tám, cô hớt dài dài chút đi, météo nói tháng này nhiệt độ xuống dữ lắm!

 

Để trả công hớt tóc, các cháu mang đến tặng cô Tám tôi nhiều loại dầu gội đầu thật thơm, đủ các nhãn hiệu khác nhau, có thứ còn đắt tiền hơn cả hai, ba lần nếu phải đi tiệm hớt tóc. Cô nói cô chất đầy một tủ dầu gội đầu tùy ý khách chọn. Thậm chí có những đứa cháu gái không đến cắt tóc cũng tự động mở tủ xin dầu gội đầu, có đứa còn gội, sấy và chải nhờ ngay tại nhà cô cho tiện. Cuối tuần căn nhà nhỏ hai phòng của cô biến thành cửa tiệm vui ghê. Cô phải nhắc khéo coi chừng sắp nhỏ đi ra đi vào ồn ào, thiên hạ tưởng cô làm ăn trốn thuế thì hơi phiền sau đó.

 

Nhưng nhân viên nhà nước đi kiểm tra chưa bao giờ tới, thì bỗng một hôm có một người khách tới, chỉ xin yêu cầu cắt ngắn bớt mái tóc dài đi mà thôi. Điều đó dễ ợt. Chỉ việc cầm kéo bén đưa một đường ngang lưng là xong. Ông khách già lối sáu, bẩy chục tuổi chậm chạp cởi áo ngoài, bỏ khăn, bỏ mũ ra. Một búi tóc khá to, bằng trái ổi xá lị bạc trắng dính sát sau gáy ông lộ ra làm cô Tám tôi tò mò hỏi dạn dĩ hơn:

 

– Dạ thưa bác, bác tính để đầu tóc để thờ ông bà như các cụ ta trước đây hồi còn ở bên nhà?

 

Ông già đẹp lão ngồi xuống ghế, thong thả dựa lưng vào tường, đưa hai tay lên cao phân bua:

 

– Thưa không phải vậy, cô chủ, số là vợ chồng tôi sang đây lánh nạn cộng sản từ năm 1975. Từ ngày đó, bà nhà tôi tập hớt tóc cho tôi, trước vụng sau khéo, suốt gần 20 năm tôi đã quen với đường kéo quen thuộc của bà. Cách nay hai năm, bà qua đời đột ngột. Tôi, phần ngại đi tiệm, phần lưu luyến với thói quen của vợ, tôi để vậy, muốn ra sao thì ra, nhưng nay thì nó dài quá, vướng vít khi gội đầu, khi chải gỡ, cô tính tôi đã ngần này tuổi rồi mà phải vật lộn với tóc tai đâu phải dễ. Nó dài quá lưng rồi. Vất vả quá. Tôi chờ cô chủ cắt ngắn đến vai. Thế thôi.

 

Bác có muốn làm ngắn hơn cũng được. Như khi xưa bác gái đã làm. Tiệm tôi đây, xin bác tha lỗi, là tiệm nhà thôi nhưng có đủ dao, kéo, tỉa, tông đơ…

 

Cô mau mắn đề nghị với vẻ sẵn lòng như muốn giúp ông già gội đầu cho khỏe, nhưng ông cụ già chối đây đẩy:

 

– Xin cám ơn lòng tốt của cô chủ, nhưng tôi chỉ muốn cắt tới chạm vai, vậy thôi!

 

– À, có lẽ bác đã lỡ hứa với bác gái cái vụ độc quyền hớt tóc này rồi. Nhưng, nếu chỉ cần xén cho ngắn đi để gội chải cho đỡ vất vả thì ở nhà con cháu làm được, can chi bác phải lặn lội tới đây? –  Cô chủ rất là tò mò hỏi vặn vẹo.

 

– Không, tôi muốn ra đây cắt tóc là để bà ấy không thấy ở nhà thì cũng được. Mà ngặt cái hình bà ấy đẹp quá, con cháu đem treo lung tung khắp nơi trong nhà. Tôi thì tôi không muốn bà ấy nhìn thấy tôi cắt tóc, bà ấy theo dõi tôi hoài cô à!

 

Cô Tám tôi cười khả ái:

 

– Không đâu, thưa bác, mấy lúc gần đây bác gái nhìn bác hoài từ tứ phía trong nhà là muốn nói với bác: Mình hãy đi cắt bớt  tóc đi, tóc tai dài, gội chải vất vả lắm. Bác gái khi nào mà chẳng lo lắng cho bác.

 

– Cô nói đúng quá, cô chủ, vợ tôi chu đáo lắm!

 

Chúc Thanh

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.