Hôm nay,  

Trang Thơ Tháng Ba

03/03/202315:24:00(Xem: 2894)
AutoStyle-Louis Soutter (1871-1942)
Autostyle của họa sĩ Louis Soutter (1871-1942).



QUẢNG TÁNH TRẦN CẦM


 

ngày mùa đông

 

1.

thơ viết buổi tối rất đen

đen cháy / đen mun / đen than / đen lọ nồi

nàng nói đen như huyền thoại

đen như phim noir

chậm chạp nhỏ từng giọt trong bầu khí quyển căng thẳng

đôi khi vương ánh nến chập chờn

trong những giờ phút chờ đợi rạng đông bừng sáng. 

 

2.

mưa nơi này  ̶ ̶ ̶  như tôi biết  ̶ ̶ ̶  không nhiều

nhưng gần đây có thể dai dẳng cả ngày đêm

nàng kéo cao cổ áo

sáng nay thức dậy chợt thấy chứng sổ mũi viêm họng và

cơn ho tức ngực không còn

không là hoang tưởng

mùi huệ trắng thật thà nồng ngái

lan tỏa cùng khắp phòng đợi

khoảng không bỗng nhiên chơ vơ xa cách mênh mông

chờ đợi lời chia tay sau cùng và những giọt nước mắt

chấm phá trên bức thủy mặc bến bờ thiên thu hiu quạnh. 

 

3.

bia hơi bên bia đá

những chân nhang bạc màu bụi tro vương vãi

buổi chiều vẩn vơ trong nghĩa trang

trời sụt sùi chuyển mưa

bóng người xiêu đổ trong cơn mất trí tập thể

thời tiết mùa đông ở đây bất định

nhẫn nhục chịu đựng nỗi ám ảnh không rời.

 

4. 

hạnh phúc là vạt nắng lấp lánh linh hoạt ngày mùa đông

bên hành lang dài sâu thẳm

bất chấp giấc mơ lênh đênh xuyên suốt giấc ngủ vùi

buổi trưa bước qua dòng cảm xúc tươi mát 

lẫn lộn đôi chút ngờ vực

những khuôn mặt / tiếng nói / điệu cười / danh tính

lảng vảng chập chờn  ̶ ̶ ̶  nghe chừng xa lạ bỗng dưng gần gũi

có phải hạnh phúc đến khi chúng ta không tìm nó? 

 

Quảng Tánh Trần Cầm

 

*

 

THY AN

 

 

Bạc tóc đèn đêm

 

đốt cháy niềm tin như đốt sợi tóc

bốc lên mùi khét

kêu cái xèo ngắn gọn

rồi xong

kỳ vọng làm chi ở những bám víu và vá víu

thời gian đang xói mòn hoài niệm

và ký ức bị lủng một lỗ quá to

 

làm thế nào định vị trái tim thật thà nhất

giữa rừng hoa hay rơm rạ

để treo lên đỉnh ngọn làm thần tượng tôn thờ

hơi hám văn minh không đủ an ủi  

chỉ đem lại thật nhiều ảo tưởng như rượu và thơ

cạn ly tửu trần chữ nghĩa

khác chi giọt nước mưa rơi xuống giếng đời

bằng hữu xôn xao rồi bặt tiếng

 

chui vào hang động đầy góc tối

trăng soi trăm ngàn hình vật biến dạng

một đống câu hỏi chập chùng

chồng chất tình yêu, gia đình, bản ngã, quê hương

mấy con đường xao động đáy sâu tri kỷ

 

nỗi buồn vẽ lên những dấu hỏi và chấm than

cô đơn bạc tóc đèn đêm…

 

 

Chữ nghĩa đàn hồi

 

ta chạy nhảy với con mắt mù vì vui

có sáng ngời bao nhiêu cũng không thấy con đường mê lộ

ta cười to với trí khôn bị giam tù

tiếng át cả lương tâm bé nhỏ

ta nâng ly rượu nồng vô cảm

đắng trái tim chiều đông

và trôi bềnh bồng

nhẹ như rơm rạ

 

máu chảy nhưng ruột chưa mềm

miệng lưỡi dẻo như cao su

chữ nghĩa nghe tội nghiệp đàn hồi

lăn trầm như viên sỏi

không ngóc đầu lên nổi

 

vung tay đánh gió thấy đau

mùa bao dung chạy vòng vòng xin lỗi

cẩu một thánh giá hay tượng Phật

treo lên cao và ngắm

ve vuốt

đồi xanh có bóng ai qua nhanh

 

thy an

 

*

 

VĨNH  NGỘ

 

Chào em

 

Chào em buổi sáng tinh khôi
Chào anh buổi tối lên đồi thẩn thơ
Chào cô một mối tình hờ
Chào người giã biệt đừng chờ đợi nhau

Chào em thấp thoáng ngày sau
Chào anh sám hối lên cầu lang thang
Chào ai chưa hết bẽ bàng
Chào người đã hết nợ nần gì đâu

Chào ai còn chạnh lòng đau
Chào ta lòng vẫn còn sầu tư hương
Chào người đi hết con đường
Chào em ở lại hết buồn hết mong.

Chào anh một thuở long đong
Chào em một dạ một lòng chờ ai
Chào ai còn sợ ngày dài
Chào ta chào hết cảnh đời trầm luân.

Chào em buổi sáng phân vân
Chào người buổi tối tần ngần chưa đi
Chào sương còn đọng rèm mi
Còn chào ai nữa, xuân thì đã qua.

 

Vĩnh Ngộ

 

*

 

NGUYỄN HÀN CHUNG

 

 

Trung úy và trung sĩ

 

Thi rớt răng khểnh bỏ tôi

dạo phố với chàng trung úy

 

Bây giờ trung úy đã già

tôi hoài đeo lon trung sĩ

trung sĩ vẫn còn ngơ ngơ

ngó nàng bón cơm trung úy

trung sĩ trở thành nhà thơ

lưu vong cuối trời xứ Mỹ

 

Năm mươi năm đã qua rồi

chiều nay một cựu trung sĩ

ngâm bài thơ gió mồ côi

gửi sóng tình về cố lý

 

Không biết trung úy phu nhân

đọc thơ ghét mình không nhỉ!

 

 

Thề không triệt sản

 

Bây chừ anh sang nước Mỹ

Lắp bắp cũng thành công dân

Sao em giục anh triệt sản

Không cho anh đẻ tản thần

 

Triệt sản anh còn cái xác

Hoặc như mới vừa thai sinh

Anh cứ hoài thai rụng trứng

Không em anh đẻ một mình

Anh đẻ trong niềm phấn hứng

Con bầy nhưng cũng khá xinh

 

Không tin em hỏi bạn hữu

của anh trên khắp hành tinh

Bạn trai cũng như bạn gái

Sao anh triệt sản cho đành!

 

Anh xin thề không triệt sản

Trời cho cứ đẻ tành tành

Miễn không đẻ loài phản bạn

Suốt đời dối trá lưu manh

 

Anh đẻ và anh dạy dỗ

con yêu đất nước của mình

chung lưng với người đói khổ

phận đời trôi nổi điêu linh

 

Chín mươi nếu anh còn sống

Vẫn đẻ, em đừng cấm anh!

 

Nguyễn Hàn Chung

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.