Hôm nay,  

Mực hầm khoai môn

14/04/202321:26:00(Xem: 3292)
Truyện

Crazy

Hai người bước vào Quán Nửa Khuya. Cô gái đi trước, mặt trái xoan, tóc dài, người mảnh khảnh áo jacket màu nâu nhạt. Chàng trai theo sau, mặt vuông, tóc bồng bềnh, cao hơn cô gái một cái đầu, vai rộng, sport coat màu sậm. Họ có vẻ nhân viên làm việc trong văn phòng nhưng không có vẻ của người làm về ngành chứng khoán hay tài chánh. Mỗi khi nấu mực hầm khoai môn, tôi nấu nhiều hơn bình thường một chút, không đậy vung để cho mùi thơm lan tỏa ra, bay lừng khắp quán, một cách mời gọi không lời. Cô gái hít mạnh một hơi rồi hỏi.
     “Hôm nay cô có món mực hầm khoai môn phải không?” Cô gái hỏi.
     “Vâng.” Tôi đáp.
     “Cô cho cháu một phần.” Cô gái nói.
     Ông khách bàn bên cạnh xía vào “Tôi cũng vậy!” Tôi xoa nhẹ hai bàn tay với nhau, thầm nghĩ. Thật đúng như tôi dự tính.
     “Ngon tuyệt vời!” Cô gái khen lớn tiếng.
     “Mực hầm khoai môn, hai món đi đôi rất hợp với nhau.” Ông khách nói chõ vào. Quán vắng nên người ta muốn tìm cách trò chuyện với nhau.
     Cậu thanh niên tự nãy giờ vẫn im lặng, vẻ mặt rầu rĩ, như người thất tình.
     “Cậu muốn ăn gì thì gọi đi.” Cô gái nhìn chàng trai giọng nhẹ nhàng nhưng kẻ cả.
     “Tôi ăn không nổi.” Chàng trai nói nhỏ, giọng chậm rãi như rã rời.
     “Cậu có vẻ không thích hợp với nghề này.”
     “Tôi vẫn thường nghe chuyện phản bội trong hôn nhân, nhưng tôi không ngờ cuộc đời có thể tàn nhẫn đến như vậy.”
     “Ngày xưa, hôn nhân là sự trao đổi giữa tình dục và thức ăn. Không ân nghĩa, hay trói buộc. Bản chất con người dễ thay đổi, tìm món ăn mới, tránh nhàm chán. Ngày nay, người ta dùng hôn nhân để trói buộc và như thế chỉ làm khổ nhau.” Cô gái nói.
     “Cậu mới vào nghề?” Tôi hỏi.
     “Đây là Nhu. Mới vào làm, còn đang tập sự.” Cô gái trả lời.
     “Cô cậu làm nghề gì?” Người khách ngồi bàn bên cạnh tò mò hỏi.
     “Thám tử tư. Phần lớn chúng tôi được thuê để theo dõi những người ngoại tình.” Cô gái trả lời.
     “Thảo nào cô có cái mũi rất thính.” Người khách nói và cười lớn như để tự thưởng lời nói của mình.
     “Tại sao Nhân lại làm nghề này?” Nhu gọi tên cấp trên trống không, có vẻ như không muốn gọi bằng chị.
     “Cậu phải tốn nhiều rượu lắm mới có thể khiến tôi trả lời câu hỏi này.” Nhân nói mà không cười.
     “Xin cô mang cho chúng cháu thật nhiều bia ạ.” Nhu nói với tôi.
     “Mỗi người chỉ được ba chai thôi. Luật của quán là như thế.” Tôi nhấn mạnh.
     Có lẽ vì đói, Nhu chưa uống hết hai chai bia đã say gục ngay trên bàn. Nhân nói. “Tôi biết cậu ấy thuộc loại nhẹ cân, nhưng chưa gì mà đã gục ngã như thế này thật đáng xấu hổ. Cậu ấy tốt nghiệp đại học ngành luật ở NYU, ra làm cho một hãng luật danh tiếng, nhưng cậu ấy bỏ việc ngang xương. Cậu bảo là không hợp và không hiểu bạn đồng nghiệp. Thật là trái khoáy. Cậu ấy không hiểu tâm lý con người, mà lại chọn ngành luật rồi lại muốn làm thám tử tư.” Nhân lay chàng trai. “Này, đi về thôi. Cậu say quá rồi.”
     Nhân cầm cánh tay Nhu đặt lên vai cô, đỡ chàng trai đứng lên. Cô đã gọi sẵn, tắc xi đang chờ ngoài cửa. Ông khách nhìn theo hai người vừa khuất sau cửa, nói bâng quơ. “Cô này nam tính quá, chắc anh ta không thể nào ‘cưa’ được cô nàng.” Tôi nhìn theo thầm nghĩ. Chưa biết. Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không bao giờ biết được. Cô gái có vẻ khẳng khái, ăn nói bộc trực, nhưng ánh mắt dành cho chàng trai có vẻ rất dịu dàng.
 
Một tuần sau, Nhân bước vào quán. Tôi hỏi. “Đồng nghiệp của cô đâu rồi. Hôm trước cậu ấy say quá.”
     Nhân ngần ngừ giây lâu, thấp giọng. “Thật không ngờ cậu ấy còn tân. Cả tuần nay cậu ấy không đi làm cũng không trả lời tin nhắn của cháu làm cháu áy náy vô cùng. Cháu nhắn tin cho cậu ấy bảo đến gặp cháu ở đây.”
     Quán vắng, ít người, tôi có cảm tưởng mọi người nghe rõ mồn một lời Nhân nói. Tôi nghe được cả những câu hỏi hiện trên nét mặt của khách. “Cô ngủ với nhân viên dưới quyền cô à?” Nét mặt bình tĩnh, lặng lẽ của Nhân  thầm bảo. “Ừ. Đã sao nào?  Ăn nhằm gì đến các người.”
Nhu đẩy cửa bước vào. Cậu đến ngồi bên cạnh Nhân, nói nhỏ:
     “Tôi xin được cưới Nhân!”
     “Cậu có khùng hay không? Tại sao lại cưới tôi?”
     “Vì chúng ta đã ngủ với nhau. Nhân cũng thích tôi mà. Người ta không thể nào ngủ với nhau mà không yêu nhau.”
     “Tôi không bao giờ có ý định kết hôn. Chúng ta chỉ ngủ với nhau có một lần thôi mà hôm ấy cả hai đều say. Cậu thật là ngớ ngẩn. Yêu? Kết hôn? Ngủ với nhau không phải là yêu nhau. Tình cảm con người không phải lúc nào cũng rõ rệt, trắng ra trắng, đen ra đen. Cậu nói chuyện như mấy bà già từ thế kỷ trước vậy. Hễ ai đụng vào con cháu bà là phải cưới để giữ danh dự.”
     Khi hai người ra khỏi quán, một người khách mỉm cười, nói. “Cô này quả có tính đàn ông. Đàn ông họ có thể làm tình chỉ vì thèm muốn của xác thịt, bởi vậy mới có chuyện ăn bánh trả tiền, không cần phải yêu thương hay có liên hệ tình cảm dây dưa. Cô ấy có lý. Một lần trao đổi thể xác có thể do nhầm lẫn hay say sưa, không nên biến nó thành một sự ràng buộc trăm năm. Tôi hiểu mẫu người này. Cô ấy có thể chia sẻ thể xác nhưng không cho ai đụng đến tâm hồn.”
 
Ý nghĩ của Nhu
 
Dù mọi người chung quanh hay bảo Nhân cứng rắn như đàn ông. Tôi thấy cô ấy rất dịu dàng, có thể nói cô ấy giàu tình cảm nhưng che giấu cảm xúc, nhất là ở chỗ làm việc. Ở văn phòng Nhân hướng dẫn tôi tận tình, luôn giúp đỡ, động viên nhất là những khi tôi yếu đuối, chịu không nổi cảnh người ta buồn rầu khóc lóc. Nhân thường nói làm nghề này, chúng ta phải cứng rắn mới có thể làm việc lâu dài, phải mạnh mẽ để không bị tổn thương. Đêm tôi say, tôi nôn thốc tháo trên lề đường, Nhân nhẹ nhàng lau cho tôi bằng khăn quàng cổ của cô. Trên xe tôi ngủ thiếp đi không thể trả lời câu hỏi nhà ở đâu, Nhân phải đưa tôi về nhà cô ấy. Nửa đêm thức giấc thấy Nhân bên cạnh, ánh mắt đằm thắm, môi hồng mềm mại. Rồi chuyện gì phải xảy ra đã xảy ra. Đó là lần đầu tiên tôi biết sự mê cuồng nồng cháy của thân xác. Và tôi nghĩ là tôi yêu Nhân.
     Công việc của tôi dễ làm, nhưng khó chịu đựng. Những người đàn bà nghi ngờ chồng ngoại tình đến thuê chúng tôi theo dõi để lấy chứng cớ để ly dị. Nhưng khi nhìn thấy chứng cớ, tâm hồn của họ bị tổn thương. Họ khóc sướt mướt trước mặt chúng tôi. Tôi luôn cảm thấy buồn rã rượi mỗi khi chứng kiến sự đau khổ của phụ nữ. Tôi nghĩ họ là những sinh vật yếu đuối cần được che chở, bảo vệ, và thương yêu.
     Sáng nay sau khi Giám đốc và tôi tiễn một người phụ nữ đến nhờ theo dõi chồng của bà, ánh mắt của bà buồn vời vợi khiến tôi đau lòng. Nghề này là nghề, nói hơi cực đoan, là chất xúc tác khiến gia đình người ta tan rã.
     Vị Giám đốc đến đứng cạnh bàn làm việc của Nhân, nói: “Nhiệm vụ mới của cô đây.” Nhân  nhận xấp hồ sơ, trên đó có ảnh người đàn ông sẽ bị theo dõi. Nhân liếc sơ qua rồi nói với Giám đốc. “Xin ông hãy giao công việc này cho Nhu. Cậu ấy chăm chỉ, biết quan sát, và rất giỏi chụp hình, quay phim. Coi như đây là một thử thách. Nếu cậu ấy làm nhiệm vụ này thành công thì nhận cậu ấy làm nhân viên chính thức.”
     Sau khi từ chối lời cầu hôn của tôi, Nhân có vẻ lạnh lùng, xa cách. Tôi sẽ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và sẽ ngỏ ý lần nữa. Dù không cưới nhau, chúng tôi có thể chính thức yêu nhau. Tôi yêu tính cứng rắn trong nghề nghiệp, sự khôn ngoan đầy hiểu biết tâm lý về con người của Nhân. Có thể nói tôi yêu vì khâm phục và ngưỡng mộ.
     Với sự hướng dẫn của Nhân, chỉ vài ngày là tôi đã thu đầy đủ chứng cớ ngoại tình của người đàn ông. Nhân nói, “ông này thường đi ăn với đồng nghiệp ở nhà hàng Tự Do. Chiều thứ Sáu, tôi ngồi chờ ông ta trong phòng khách của nhà hàng, tầng trên là khách sạn. Máy quay phim dấu trong cặp. Chập sau, người phụ nữ ăn mặc sang trọng đến, hai người hôn phớt nhau và đi về phía thang máy. Tôi hướng máy quay phim đến hai người, nhưng quay lưng lại để không bị họ nhìn thấy mặt. Nghe tiếng chuông thang máy “ding-ding” tôi ngỡ thang máy đóng cửa nên tôi quay mặt lại. Không ngờ đó là tiếng mở cửa của thang máy đối diện. Tôi nhìn thấy cô tình nhân của người đàn ông và ngỡ ngàng.
 
Ở Quán Nửa Khuya Nhu đưa xấp hồ sơ và những tấm ảnh cậu chụp được buổi chiều thứ Sáu. Ngắm nghía xấp ảnh, Nhân nói. “Rất tốt!  Cậu hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.”
Trước ánh mắt dò hỏi của Nhu. Nhân kể:
     “Anh ấy, là vị hôn phu cũ của tôi. Cách đây hai năm, tôi tình cờ gặp lại anh ấy sau khi chia tay hơn mười năm. Ngày xưa, có một cô gái rất ngây thơ. Cô yêu và đính hôn với một người. Một ngày, cô bỗng thấy vị hôn phu của cô vào một chiếc tắc xi. Bản tính tò mò, và thích làm người yêu ngạc nhiên, cô bảo tắc xi của cô theo dõi chiếc tắc xi trước mặt. Rồi cô chứng kiến sự phản bội của vị hôn phu. Những ngày tiếp theo, cô tiếp tục theo dõi vị hôn phu và cô nhận ra mình yêu thích công việc này. Bản chất của con người là muốn khám phá sự thật. Cô thích đến độ trở thành thám tử tư.”
     “Thế rồi… Vị hôn phu thì sao?” Nhu hỏi.
     “Cô gái trình bày chứng cớ với vị hôn phu, bảo, ‘anh phải trả thù lao cho tôi và bồi thường sự phản bội của anh.’  Rồi tôi từ hôn. Thật là mỉa mai. Ngày xưa tôi bỏ anh ấy vì anh ấy phản bội tôi. Rồi bây giờ vì tôi anh ấy phản bội vợ.”
     “Tôi có một câu hỏi. Tại sao lại là ông ấy, mà không phải là tôi?”
     “Tình cảm của con người không phải lúc nào cũng phân biệt rõ rệt như trắng với đen. Tôi không biết phải giải thích như thế nào. Có thể nói là chúng tôi giống nhau hợp nhau như mực hầm khoai môn vậy.”
     “Nhân không cảm thấy tội nghiệp cho vợ con của người ta hay sao?”
     “Không. Tất nhiên, người phản bội bao giờ cũng có lỗi. Nhưng trong bất cứ cuộc ngoại tình nào, có thể nói, mối tình ấy hay cuộc hôn nhân ấy đã từ lâu bị rạn nứt. Một sự quen thuộc đến độ lơ là bỏ bê, hay một sự săn đón đến độ trói buộc đều là nguyên nhân của sự rạn nứt.”
     “Nhân nói nghe tàn nhẫn quá.”
     “Sau khi từ hôn với anh ấy, tôi luôn luôn trong tư thế dẫm nát trái tim người khác trước khi người ta có thể dẫm nát trái tim tôi.”
     “Bản báo cáo này phải nộp cho Giám đốc. Việc này sẽ có ảnh hưởng trầm trọng với Nhân.” Nhu nói.
     “Không sao. Cứ nộp. Nhu! Cậu phải cứng rắn lên, phải mạnh mẽ mới có thể sống với nghề này.”
     Khi Nhu đứng dậy ra về, Nhân còn nhét bản báo cáo với xấp ảnh tận tay Nhu. Tôi hỏi. “Hành xử như thế có khôn ngoan và hợp lý không?”
     “Chắc cô nghĩ rằng cháu là người xấu và mất thiện cảm với cháu?”
     “Không. Tôi biết, cô phải cứng rắn để sống còn trong cuộc đời.” Nhân quay mặt đi nhưng tôi thấy nước mắt cô lưng tròng.
 
Bẵng đi rất lâu Nhu trở lại tiệm. Trông cậu có vẻ tươi tỉnh hơn. Cậu chào tôi với nụ cười. Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy nụ cười của cậu.
     “Công việc của cậu như thế nào?” Tôi hỏi.
     “Dạ tốt hơn nhiều. Cháu nghĩ là tuy khó nhưng cháu có thể tiếp tục công việc này. Sau vụ tai tiếng, Nhân xin thôi việc. Người tình cũ của Nhân có hẹn gặp cháu để trò chuyện và hỏi thăm về Nhân. Ông bảo, vợ ông không cần phải thuê người theo dõi vì sớm muộn gì bà cũng biết, có lẽ sớm hơn là muộn. Thật ra, có lẽ trong thâm tâm ông cũng muốn bà vợ biết. Dĩ nhiên là Nhân biết bị theo dõi. Trong phim cháu quay lúc theo dõi hai người, có một đoạn Nhân thè lưỡi ra như để chế nhạo người đang theo dõi Nhân. Ông ấy kể. Đêm ấy trong khách sạn lần đầu tiên ông ấy thấy Nhân khóc. Ông muốn ly dị vợ để được ở gần bên Nhân, nhưng Nhân từ chối. Nhân bảo rằng Nhân đã phản bội chính con người chân thật và nhân hậu của nàng. ‘Để cho cậu theo dõi bắt quả tang chúng tôi, là một viên đá ném hai con chim. Cô ấy muốn cắt đứt tình cảm với tôi và với cậu, nhanh chóng và dứt khoát. Nếu bảo rằng Nhân  có tính đàn ông, thì phải nói rằng cái chất quân tử của tôi không bằng phân nửa của Nhân.’  Riêng với cháu, Nhân  đã giúp cháu trở thành đàn ông. Và vì thế cháu mang ơn. Cháu sẽ đi tìm cô ấy.”
     Mực là thức ăn dai. Khoai môn là thức ăn mềm. Nhiều người nghĩ rằng hai thứ đi đôi nhau có bản chất giống nhau nhưng không hẳn như thế. Tôi cho rằng bởi vì bản chất trái ngược nhau, chúng bổ túc cho nhau.
 

Nhị Ngã

(Truyện phóng tác)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.