Hôm nay,  

Bệnh

4/18/202313:38:00(View: 3635)
Tạp bút

sad man

Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành-trụ-hoại-không. Phàm đã sanh ra làm người thì ai ai cũng có bệnh, không nặng thì nhẹ, không nhiều thì ít, không lúc này thì lúc khác; không phải đến lúc lão mới bệnh. Bệnh có thể xảy ra ngay cả lúc còn trong bụng mẹ, lúc sơ sinh, nhi đồng, thiếu niên, thanh niên… nói chung là bệnh hiện diện ở tất cả mọi giai đoạn của đời người. Bệnh cũng không phân biệt giàu- nghèo, sang-hèn, trí-ngu, đông-tây... Tuy nhiên mỗi chủng tộc và mỗi thành phần dân cư lại có những loại bệnh đặc trưng, ví như người Việt thì có tỉ lệ bệnh về gan cực cao, trong khi người da trắng lại nhiều về ung thư da. Người Mỹ thì chiếm tỷ lệ lớn về bệnh béo phì và tim mạch, trong khi đó người vùng Địa Trung Hải thì tỉ lệ bệnh tim mạch thấp nhất thế giới. Điều này có lẽ phụ thuộc vào phước báo, tập quán ăn uống, môi trường và lối sống của họ.
     Hình như chưa có ai thống kê môt cách đầy đủ có bao nhiêu thứ bệnh trên thế gian này? Bệnh nhiều lắm nhưng nhìn chung thì chia hai nhóm chính là bệnh về thân xác và bệnh tâm trí. Thân bệnh coi vậy chứ dễ chữa hơn bệnh về tinh thần (trừ những bệnh ngặt nghèo và nan y). Thân bệnh nếu nhẹ thì cảm sốt, đau bụng, nhức đầu, ốm vặt… nặng hơn chút thì đau ruột thừa, sỏi thận, đau bao tử… nặng hơn nữa thì bệnh tim mạch, ung thư hay những bệnh mà xưa nay thường gọi là: “tứ chứng nan y”. Với trình độ khoa học, y học ngày nay thì những bệnh thuộc tứ chứng nan y nay không còn khó nữa, chẳng hạn như bệnh cùi thì ngày nay cơ bản đã chữa được và không còn lây lan. Ung thư thì cũng có thể chữa được nếu phát hiện sớm. Có một điều là khi trình độ y học nâng cao, khoa học kỹ thuật phát triển, những bệnh cũ có thể chữa trị được thì đời sống lại xuất hiện những căn bệnh mới rất nguy hiểm, tỷ như: SIDA, Ebola, Corona và nhiều loại virus mới phát sinh và liên tục cho ra những biến thể mới. Đời sống hiện đại cũng  làm tăng trưởng nhanh và mạnh những bệnh như: béo phì, tim mạch, thống phong (gout), tiểu đường, cao mỡ, cao máu…
     Thân bệnh là thế, y học và khoa học hiện đại có thể chữa trị một cách tích cực và hiệu quả nhưng tâm bệnh thì thế nào? Vấn đề này xem ra chưa được hiệu quả mấy, y học hiện đại, khoa học tân tiến với nhiều phương tiện máy móc nhưng hầu như chưa chữa trị được tâm bệnh, phần nhiều chỉ là cho thuốc an thần, thuốc ngủ để đưa con bệnh vào trạng thái mê mờ để tạm thời cắt cơn bệnh chứ chẳng phải chữa trị dứt căn bệnh.
     Tâm là một khái niệm trừu tượng vô hình, không thể thấy hay nắm bắt. Tiếng anh có thể dùng nhiều từ như: mind, soul, spirit, thought, mental… tùy hoàn cảnh và trường hợp mà dùng từ cho thích hợp. Tâm là từ Hán Việt chỉ trạng thái tâm lý, ý, tinh thần của con người. Con người có hai phần thân và tâm, thiếu một thì không thể thành con người, hỏng một thì cũng chẳng phải là một người bình thường. Tâm phải có thân để gá vào và thân phải có tâm mới có thể hoạt động hay khiển dụng. Loài vật tuy chỉ có thân nhưng vẫn hoạt động được, ấy chỉ là bản năng chứ không phải diệu dụng như con người.
     Thân bệnh thì tâm cũng khó mà vui vẻ hạnh phúc còn tâm bệnh thì thân thể sẽ tàn tạ. Tâm bệnh, nếu nhẹ thì hơi tưng tửng, thiếu tập trung, nói năng linh tinh, hành động thiếu sáng suốt; nặng hơn một chút thì khùng điên, mất trí… Khoa học có thể gọi là thần kinh phân liệt, dân gian thì gọi là bị vong nhập, bệnh đàng dưới, tẩu hỏa nhập ma. Nói chung tâm bệnh là thần kinh bị hỏng ( với nhiều mức độ khác nhau).
     Cuộc sống hiện đại với nhịp sống hối hả, căng thẳng, áp lực quá nhiều khiến cho nhiều người bị căng thẳng thần kinh (stress), tự kỷ, trầm cảm… Hiện nay những người bị tâm bệnh như thế này ngày càng gia tăng nhanh chóng, có ở mọi lứa tuổi, mọi giới tính, mọi thành phần trong xã hội; bên tây, tàu, ta gì cũng rất nhiều, phổ biến khắp nơi, nhất là ở đô thị và những thành phố lớn. Chữa trị tâm bệnh có thể dùng liệu pháp tâm lý nhưng phần nhiều người ta lạm dụng thuốc an thần, thuốc ngủ.
     Trong những thập niên gần đây, phương tây đã áp dụng phương pháp thiền để chữa trị tâm bệnh. Thiền là một phương pháp thực hành tu tập trong Phật giáo, thiền để tập trung tinh thần và tâm ý, huấn luyện tâm. Các nhà điều trị bệnh tinh thần đã nhìn thấy lợi ích của thiền và đã dùng thiền đễ chữa trị. Có nhiều bằng chứng khoa học qua ngiên cứu sóng điện não khi thực hành thiền và cũng như những hiệu quả tích cực khi áp dụng trong thực tế. Những người bị tâm bệnh khi thực hành thiền thì trở nên an hòa (calm, peace) bớt loạn động, bớt căng thẳng, tập trung tinh thần tốt hơn. Thiền không còn quá xa lạ với người Âu-Mỹ. Thiền đã được áp dụng rộng rãi và nhiều thành phần người trong xã hội tham gia: Ở Wisconsin, California có áp dụng thiền cho các nhà tù. Có đơn vị cảnh sát Canada cũng thực tập thiền thường xuyên, nhiều trường học cũng dạy thực tập thiền cho học sinh… Tất cả đều đem lại hiệu quả rất tích cực, những người tham gia thực tập thiền đều có những điểm chung là tinh thần lắng đọng, an lạc, giảm bớt căng thẳng… Có nhiều tu sĩ Phật giáo chấp nhận cho các bác sĩ và nhà khoa học dùng dụng cụ kỹ thuật tân tiến để đo điện não đồ trong lúc họ hành thiền và các nhà khoa học đã ghi nhận sự khác biệt lớn giữa một người hành thiền và người không thực tập thiền. Vì thế tâm bệnh không thể chữa trị một cách đơn giản bằng thuốc men hay bằng các phương tiện máy móc hiện đại như thân bệnh, muốn chữa trị tâm bệnh thì không thể không dùng liệu pháp tâm lý cũng như các biện pháp thiên về tinh thần. Thiền là một trong nhiều phương cách đó.
     Trên mạng xã hội có lưu truyền một câu nói vui nhưng rất thực tế và nhiều người thích thú: “muốn tìm hiểu bất cứ vấn đề gì thì cứ vào Google, tuy nhiên muốn lắng đọng và an lạc thì Google không thể giúp, chỉ có thể tìm ở thiền”. Quả thật như thế, Google, AI có thể giải đáp tất cả, có thể cung cấp mọi thông tin trên thế gian này nhưng muốn tìm an lạc, lắng đọng, bình tâm thì chỉ có thể tìm ở thiền mà thôi!
     Tâm bệnh tuy khó  trị  nhưng khi chữa trị không nhất thiết phải dùng phương tiện vật chất hay kỹ thuật, đôi khi chỉ dùng liệu pháp tâm lý, thiền cũng đem lại hiệu quả. Tuy nhiên với những ca bệnh điên hay mất trí thì vô phương cho dù máy móc và phương tiện y khoa có tân tiến nhất hiện nay.
     Cuộc sống hiện đại với lối sống độ thị, công nghiệp hóa, kỹ thuật hóa cao độ. Con người quay cuồng trong cơn lốc tranh đua cơm áo, gạo tiền, đua đòi hưởng thụ, lo lắng nhà cửa, công việc… đã tạo nên áp lực cực lớn lên mọi người, tác động tâm lý rất mạnh, cộng thêm tác động của tâm lý đám đông từ những mạng xã hội làm cho tinh thần con người bất an, xáo trộn, loạn động, tăng động hoặc bị ức chế… Những căn bệnh tâm ý, tinh thần như thế thì khó có thể chữa trị bằng thuốc men, (thuốc an thần chỉ làm dịu tinh thần hay gây ngủ trong vài giờ, khi hết thuốc hết thì bệnh lại như cũ và cứ như thế thì càng ngày càng phải tăng liều thuốc và sẽ lệ thuộc vào thuốc), phẩu thuật thì không giúp ích gì trong những trường hợp này. Cách duy nhất chính là những liệu pháp tâm lý, tập yoga, tập thiền…
     Người Việt chúng ta có rất nhiều người mắc phải một dạng tâm bệnh thể nhẹ đó là ngứa mắt, ngứa ý, ngứa miệng, bệnh này không nghiêm trọng nhưng gây nhiều phiền phức. Hễ cứ thấy ai đó không vừa ý mình là lập tức ngứa miệng xỏ xiên, chê bai, đâm thọt, cà khịa. Có những cái không vừa ý mình mà trong khi chưa chắc mình đã đúng, tỷ như thấy ai đó ăn mặc không giống mình, hành xử khác mình, yêu đương không như mình, quan điểm dị biệt với mình… là lập tức ngứa ý, ngứa mắt, ngứa miệng. Cái tiến trình ngứa này trước hết khởi từ ý, khi mắt thấy, tai nghe hay tiếp xúc là lập tức cái ý nó sanh phân biệt ngay lập tức, hễ không vừa ý mình là nó xui khiến phát ra lời nói hay hành động, có nhiều khi nó còn manh động ngứa tay chân gây động thủ.
     Có một dạng ngứa tay ăn cắp vặt (mặc dù người ăn cắp vặt ấy chẳng phải nghèo khổ, thậm chí rất khá hay giàu cũng ăn cắp vặt) đây cũng là một dạnh bệnh về tâm ý vậy. Có nhiều người vì mất của, thất tình mà mang tâm bệnh đến nỗi thân xác tiều tụy, thần hồn ngơ ngáo, điên đảo tâm hồn. Có những trường hợp nặng dẫn đến tự hủy hoại bản thân, tự sát, nhảy lầu, trầm mình...Lịch sử cho thấy có những bậc trượng phu cũng mang tâm bệnh, họ bệnh vì chí lớn, chẳng hạn như Ngũ Tử Tư chỉ vì hận hôn quân, nhớ thù cha mà tâm thần xáo động sau một đêm râu tóc bạc phơ. Khuất Nguyên chỉ vì chí lớn không can gián được vua mà mang tâm bệnh đến nỗi phóng khí râu tóc xác xơ, thân hình tiều tụy và cuối cùng phải trầm mình ở sông Mịch La. Ở thế gian này tâm bệnh thật sự đáng lo hơn thân bệnh, khó trị hơn thân bệnh.
     Ở phương diện quốc gia thì độc tài là một loại tâm bệnh cực nặng. Những tay độc tài muốn mọi người phải theo mình, nghe mình, phục tùng mình mà không biết rằng mình sai trái, vô lý, tàn bạo. Độc tài có một điểm chung là tham muốn đến cuồng điên được trường tồn, trường trị, thâu tòm tất cả, giữ lấy mọi thứ. Căn bệnh tinh thần của những tay độc tài quả là đại họa cho dân và đất nước, Đã độc tài thì thường hoang tưởng, chúng ta có thể thấy những trường hợp cụ thể như: Hitler, Mussolini, Pinochet, Saddam  Hussein, Gaddafi, Assad, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, ba đời họ Kim (Bắc Hàn), Putin, Khomeini…
     Độc tài, hoang tưởng là căn bệnh tâm lý cực kỳ nghiêm trọng vì những kẻ này nắm vận mệnh quốc gia và dân tộc, nó gây ra bao nhiêu tàn hại, đau thương cho con người cho xã hội. Loại tâm bệnh này khó có thể chữa trị nếu không muốn nói là không thể chữa trị, thực tế chứng minh chưa thấy một nhà độc tài hoang tưởng nào có thể trở lại tâm ý bình thường. Những tay độc tài hoang tưởng và những kẻ sát nhân hàng loạt đều có tâm ý rất gần nhau và đều vô phương chữa trị. Chỉ có một điểm khác là những tên sát nhân hàng loạt nhưng không có quyền hành thì chỉ có thể giết vài người hay vài mươi người. Còn những tay độc tài nắm quyền hành thì chúng có thể giết ngàn người, vạn người, triệu người… và làm tàn lụi cả một quốc gia hay nhiều quốc gia.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 0423)

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.