Hôm nay,  

Thơ Tháng Tư

23/04/202313:39:00(Xem: 3538)

30 Thang Tu

NGUYỄN HÀN CHUNG

 

 

Tiếng khóc tháng tư

Tôi lắng nghe tiếng khóc đâu
đó nấc lên ngày tháng tư lắng
nghe từng âm âm ức ức mà
phỏng đoán tiếng khóc
ấy là khóc mừng vui sum
họp hay tủi hờn chia ly

Tiếng khóc gào tru
tréo những cái miệng méo
xệch những bàn tay cấu vào
tấm ảnh tiếng gầm gừ ùng
ục trong cổ họng nước mắt trào
ra trộn với nước mũi chảy
xuống tận cằm dính vào những
ngấn cổ trắng nõn

Tiếng khóc ngằn ngặt của con
bé đòi bú tiếng khóc rấm
rứt của bà mẹ già tiếng khóc xé
ruột của người vợ trẻ nhỏ xuống
vầng trán của đứa con thơ từ
nay không còn bố nữa

Tiếng khóc hức hức xen
lẫn tiếng cười hả hê giọng
Nam pha Bắc mùi thuốc
lào khét nghẹt phả lên từ những
điếu cày bằng trúc bóng loáng
gợi tôi nhớ câu thơ trong bài
cáo Bình Ngô chặt hết trúc Nam
sơn không ghi hết tội

Bốn mươi năm qua rồi những
tiếng khóc xuyên thấu màng
nhĩ tôi thời trai trẻ trong giấc
mơ đồng hiện tiếng khóc mù
sương.
 

Tam đoạn luận thơ

 

1

Những người làm thơ dở ghét bỏ những người làm thơ hay

Những người làm thơ hay khinh thị những người làm thơ dở

Người không làm thơ nhưng thích thơ coi thường cả hai

 

2

Những người quản lý thơ coi thường ra mặt các nha lại thơ

Những nha lại thơ coi thường lén lút các nhà quản lý thơ

Những người làm thơ ngoài luồng khinh mạn cả hai

 

3

Những người làm thơ vần vè chê bai những người làm thơ cách tân không làm được thơ vần hay

Những người làm thơ cách tân chê bai những người làm thơ vần là tư duy nô lệ người đi trước

Những người không biết làm thơ khi đọc thơ không biết tin ai nên

chỉ ưa thích những gì họ cảm nhận được

Và họ cho đó là thơ
Vì họ cho đó là thơ.

***

 

TRẦN YÊN HÒA

 

 

Quên đi ngày tháng đó

 

Hãy quên đi ngày tháng đó

Ngày tháng hực lửa trên toàn cõi

Từ bắc chí nam

Từ trường sơn ra biển cả

Đâu đâu cũng có người chết

Máu và nước mắt

Đâu đâu cũng tan hoang những phận đời mất mát

Tôi đã nhìn thấy một tháng tư máu đỏ lòm

 

Máu chảy thẫm dưới đất sâu

Trên rừng núi cao

Hay ngoài biển cả

Máu và người chết từ trường sơn xuống đồng bằng

Quảng Trị Thừa Thiên Huế

Đại lộ kinh hoàng

Đà Nẵng Tam Kỳ Hội An

Rùng mình hoảng loạn

Pleiku Ban Mê Thuột Tỉnh lộ 7

Ngập xác người

Thù và bạn

Sài Gòn thất thủ

tan hoang

 

Nhớ làm gì những tên người

hồ chí minh võ nguyên giáp phạm văn đồng lê duẩn trường chinh lê đức thọ văn tiến dũng trần văn trà

ngô đình diệm nguyễn văn thiệu nguyễn cao kỳ nguyễn văn toàn, lâm ngươn tánh...

Nhớ làm gì nhớ làm gì

Họ đã về với đất

Tiếng thơm, tiếng ô nhục

Có cả

Vắt trên hai vai

 

Hãy quên đi ngày tháng đó

 

Hãy vô cảm

Lạnh băng

Hơn bốn mươi tám năm qua

Như một cơn kinh hoàng đã ngủ

Hãy để nó ngủ đi

Hãy quên nó đi

 

Quên

Tôi quên

Tôi cố quên

Ngậm đắng nuốt cay quên

Những huênh hoang

Của kẻ thắng cuộc

Những đau thương

 Của kẻ thua cuộc

Chung quy cũng là

Cái tôi

 

Tôi

Cái tôi

Là Tự Do

Là Dân chủ

Không ai biết điều này

 

Tôi

Tôi thôi

Xin công bố

30-4-2023

Quên

Quên tất cả

Hãy quên

 

Nhưng Tự Do

Tôi xin viết hai chữ Tự Do

Viết hoa

Bằng Máu và Nước Mắt

 

Em yêu dấu!

Hãy cho anh

Được Tự Do.

Nói

Và Viết

 

Em Yêu Dấu

Cảm ơn em

Đã cho anh

Cái Tự Do đó

 

(30-4-2023)

 

 

Thơ (Xuôi, Xui) Tháng Tư

 

Tháng tư nằm nhà nghe gió thốc tháo ngoài hiên

Nghe mưa từ sáng sớm rầm rì trên mái tôn tí tách

Mưa đồng nghĩa với nỗi buồn, đồng nghĩa với sự cô đơn khiến ta thầm thì độc thoại

Mưa đồng nghĩa với nỗi nhớ em, nhớ muôn vàn, nhớ đến từ mọi ngả, dầu đầu óc kín bưng không muốn mở ra một nơi nào của trang ký ức.

 

Tháng tư đặc quánh những ngã đường đi và đến không ai cho mình đến và chẳng ai cho mình đi

Ở nhà, ở nhà như một lệnh gọi từ con tim nhân gian.

 

Em không phải là một hình ảnh có màu sắc, có hình hài

Em của ngày xưa áo trắng, xanh, vàng, tím, em học trò, em dạy học, em bán buôn, em chợ trời, em công chức, em làm neo, em linh tinh, lang tang trên mọi nẻo đường, cùng khắp trong tâm trí ta một thời lộng gió

Em trở về từ bản ngã, từ thiện tâm, từ muôn trùng ý tưởng buông xuôi vô vọng

Em bây giờ, ở đâu? hở nhỏ

Những ngày tháng tư, anh chỉ thấy những con đường vắng hoe người đi lại, thành phố vắng hoe, xe cộ vắng hoe không tiếng nói.

 

Những ngày tháng tư, không chợ búa, không gặp bạn bè, không lai rai ba sợi kể cả không em, là thế đó.

 

Những ngày tháng tư, không trường học, không tiếng ê a của lũ trẻ. Tất cả đã vắng hoe lòng ta, như vắng hoe một tình yêu dạo nọ.

 

Thôi thì trùm mền ngủ cho xong, nhưng có ngủ cũng phải thức dậy để thấy vắng tanh, rỗng không, một tháng tư này

Còn lại là nhớ về nơi, cố xứ

Cố xứ

Cố xứ

Cố xứ

Ơi! cố xứ thân yêu, của tôi.

 

***

 

Lại nhớ lại một tháng tư, xưa

Một ngày tháng tư máu đỏ lòm từ long khánh đồng nai ngã ba dầu dây cầu bình triệu

Người người lê thê lếch thếch bế bồng nhau đi tìm con đường sống

Ai ai cũng chạy cũng muốn tránh xa cơn đại dịch chiến tranh đã đè lên cổ người dân suốt hai mươi mốt năm ròng

Trên những chặng đường chạy giặc

Giặc từ trên cao, là đạn pháo, là bom

Giặc từ dưới đất, là mìn,

Giặc từ đường bộ, là đắp mô,

Giặc từ trong bìa rừng, trong hốc đá, bên lũy tre, trong các chòi canh, bắn xối xả xuống dân, những vết đạn thù

 

Bắn thì bắn, dân cứ chạy đi, chạy đi, chạy đi

Dân như con sâu, cái kiến, con ốc sên, loài bò sát

Dân hy vọng mơ hồ, chạy là sẽ thoát,

Để thoát khỏi bị chặt móng tay, bị chặt móng chân, bị cắt lỗ tai hay bị bắn trực xạ bằng những lọat tiểu liên AK-47.

 

Chạy được, là sẽ thoát.

Thoát khỏi bị cắt quần ống loe, tóc hippy dài ngoẵng, dài ngoằng

 

Chạy từ Tam Kỳ, Đà Nẵng.

Chạy từ Quảng Ngãi Chu Lai Qui Nhơn Bình Định Tuy Hòa Nha Trang Phan Thiết

Chạy từ Long Khánh đến Sài Gòn

Chạy bộ bằng hai chân trần nứt nẻ tươm máu dưới những viên đá ba lát trên đường quốc lộ số một hay trên đường rầy xe lửa

Điểm dừng cuối cùng, ở đó, Sài Gòn

Nhưng rồi phải chạy tiếp

Phải chạy ra biển bằng thuyền, hay, đeo bám trên máy bay trực thăng

Đeo bám được là sẽ thoát

Nhưng hai cánh tay đeo bám mỏi nhừ đành thả lỏng rơi tòm xuống biển sâu

Biển sâu quá không thấy tăm hơi

Chắc làm mồi cho cá

Những người không chạy thoát được đều bị lùa vào những trại  tập trung

Trảng Lớn Long Giao Long Khánh Suối Máu Thành Ông Năm Xuân Phước

Hay được đưa ra bắc trong những chiếc tàu chở súc vật đến những trại Hà Nam Ninh, Cổng Trời

Không bị chặt móng tay cắt móng chân cạo trọc đầu hay cắt quần ống loe

nhưng đau thương khổ hạnh bằng lao động cưỡng bách suốt năm năm mười năm mười lăm hay mười bảy năm

Khổ hạnh như một loài ma trơi

Sống không bằng chết

 

Bây giờ tháng tư về cận kề là nỗi hoang mang bơ vơ tận cùng đơn độc

Ta bị chôn chân tại nhà bị những con vius corona vây khốn

Tháng tư nào cũng bị vây khốn là nghĩa làm sao

Tháng tư với những chiếc mặt nạ (khẩu trang)

Những chiếc mặt nạ xanh màu hy vọng

Những chiếc mặt nạ đen

Đen một màu đen ma quái chết chóc

Những mặt nạ cười

Ai cũng đeo trên mặt mình chiếc mặt nạ của riêng mình

Chiếc mặt nạ đánh bóng hay bôi đen

Như một tháng tư được nhìn dưới những khuôn mặt

Không phải của mình

Rồi sẽ hết tháng tư

Sẽ hết những con virus chết tiệt

Sẽ nhận được tiền một ngàn hai mà báo đài la ó hơn cả tháng qua.

 

– Trần Yên Hòa

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.