Hôm nay,  

Giặc Tháng Tư

24/04/202317:15:00(Xem: 4091)
Tạp bút Tháng Tư

War arts

Tôi nhớ dạo còn nhỏ, ba tôi thường hay kể về chuyện “chạy giặc” cho anh em tôi nghe. Đại khái là vào những năm 1944-1945 ở Đà Lạt cũng rơi vào tình trang chiến tranh như mọi nơi khi sự hiện diện của hai quân đội Pháp lẫn Nhật trên mảnh đất Hoàng Triều Cương Thổ của nhà Nguyễn. Tháng ba năm 1945 Nhật đảo chánh Pháp trên toàn cõi Đông Dương để lập nền đô hộ tại ba xứ Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao. Theo lời ba tôi thì tại Đà Lạt cũng xảy ra chuyện đánh nhau giữa quân đội Pháp và quân đội Nhật khiến cho dân chúng phải phải chạy ra khỏi vùng đang đánh nhau. Những kẻ theo Pháp đều bị lính Nhật săn lùng để giết đã đành, nhưng những kẻ theo Việt Minh để chống Pháp cũng bị quân đội Nhật truy lùng để giết. Rồi bà ngoại tôi có kể cho anh em tôi nghe bọn Nhật bắt được chín mười người hoạt động cho Việt Minh và đưa lên ngọn đồi giáp với Mả Thánh về hướng Bắc và bắn họ chết tại đó. Khu đồi này về sau có ngôi chùa được xây lên. Đó là chùa Viên Quang thuộc địa phận khu phố ba của thành phố Đà Lạt.
     Khi đó gia đình ba tôi cũng như bao gia đình khác phải rời bỏ Đà Lạt để tìm nơi an toàn hơn. Thế là rất nhiều gia đình bỏ nhà bỏ cửa kéo nhau chạy xuống hướng Phan Rang hoặc Nha Trang để sau một thời gian ngắn, khi tình hình yên ổn mới dắt nhau trở về lại Đà Lạt. Hồi đó chưa nghe hai chữ “di tản” hay “tản cư’ mà dân chúng gọi là “chạy giặc”. Giặc đây là giặc Pháp lẫn giặc Nhật. Hai chữ “chạy giặc” cũng rất phổ thông trong thời kỳ “kháng chiến chống Pháp” lẫn thời kỳ đánh nhau khi Bắc Việt đưa quân vào đánh Miền Nam sau hiệp định Genève ký ngày 20 tháng 7, 1954. Ở những vùng Việt Minh kiểm soát khi có quân Pháp đến đánh “Việt Minh” thì dân chúng phải dắt díu nhau mà “chạy giặc”. Còn ở những vùng do phía Quốc Gia kiểm soát thì khi Việt Minh xâm nhập vào thì dân chúng cũng rủ nhau mà “chạy giặc”. Hồi đó thường nghe mấy tiếng “giặc Pháp”, khi lớn lên lại nghe “giặc Cộng”. Những ai gieo rắc sự sợ hãi, bắt bớ, tù đày, giết chóc… đều được dân chúng gọi là “giặc”. Những ai đến cướp bóc tài sản, phong tỏa sinh hoạt kinh tế, cấm đoán mọi sinh hoạt tự do đều gọi là “giặc” và dân chúng phải tìm cách chạy thoát ra khỏi sự kiểm soát của bọn này gọi là “chạy giặc”. Ca dao Việt Nam có câu:      Con ơi nhớ lấy câu này/ Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan.
     Khi cộng sản Bắc Việt dựng lên cái gọi là “Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam” vào tháng 12, 1960 thì những cuộc đánh phá, khủng bố diễn ra khắp nơi, đặc biệt là các vùng nông thôn, dân chúng mỗi lần nghe Việt Cộng tràn về là họ gánh gồng con cái, của cải để tìm đường “chạy giặc”. Khi chiến tranh ngày càng khốc liệt thì việc “chạy giặc” lan tràn khắp hầu như gần cả Miền Nam Việt Nam từ Quảng Trị, Thừa Thiên vào đến các tỉnh cao nguyên, miền đông miền tây Nam phần. Tết Mậu Thân 1968 những người “chạy giặc” không kịp đã phải chết thảm trên các đường phố, trong nhà thờ, trường học hay dưới những hầm hố mương rạch. Trận chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa” ở Quảng Trị, An Lộc, Chơn Thành, Đất Đỏ… dân chúng “chạy giặc” và tìm đường đi về phương Nam chứ chẳng thấy ai tìm đường chạy về phương Bắc cả! Nếu Bắc việt là “chốn thiên đường” thì con sông Bến Hải bắc qua cầu Hiền Lương đã có trăm vạn người nhảy sông để bơi về phương Bắc. Hơn thế nữa… những người ở trong hàng ngũ cán binh cộng sản đã rủ nhau “chạy giặc” tức là rời bỏ hàng ngũ lính Bắc Việt để chạy về đầu thú với dân Miền Nam dưới cái tên “chiêu hồi”. Lịch sử còn đó! Những người cộng sản làm sao biện mình với những chứng cứ lịch sử này.
     Biến cố lịch sử mùa xuân 1975 mà “bên thắng cuộc” có được là do những “khuất tất lịch sử” đã được giải trình mấy chục năm qua trong đó có những người “bên kia” đã “sáng mắt sáng lòng” nhận ra rằng “bên thắng cuộc” chính là giặc đúng theo tiêu chuẩn tiêu cực nhất của chữ “giặc”. Và ngay sau khi “giặc” chiếm được đất đai, tài sản của dân Miền Nam thì “giặc” vẫn làm công việc của chúng trong gần nửa thế kỷ qua trên toàn dải đất hình chữ S là tiếp tục “cướp ngày lẫn cướp đêm”.
     Sợ giặc nên phải chạy giặc. Chưa đến ngày 30 tháng Tư mà các nhà “tai to mặt lớn” của Miền Nam đã leo lên máy bay để rời khỏi đất nước, đó không phải là “chạy giặc” thì gọi là gì? Kể từ ngày 30 tháng Tư trở về sau hàng triệu người đã chạy trốn vào rừng tìm đường lánh nạn, ùa nhau ra biển, bất chấp hiểm nguy… bỏ lại “quê hương mới được giải phóng” thì những hành vi đó nếu không gọi là “chạy giặc” thì gọi là gì? Vượt biên ư? Đúng! Nhưng “vượt biên” chỉ là cách nói để chỉ hành động “chạy giặc” mà thôi. Có một định nghĩa tương đối chính xác về chữ “giặc” trong cuốn tự điển tiếng Việt do viện ngôn ngữ học Việt Nam xuất bản năm 2005, nơi trang 396 như sau: “Giặc: kẻ tổ chức thành lực lượng vũ trang, chuyên đi cướp phá, làm rối loạn an ninh, gây tai họa cho cả một vùng hoặc một nước…” Tôi hoàn toàn đồng ý với định nghĩa trên của viện ngôn ngữ học Việt Nam!
     Dùng “lực lượng vũ trang” là quân đội và cảnh sát cơ động để cướp đất đai của ông Đoàn văn Vương ở Tiên Lãng Hà Nội, dùng “lực lượng vũ trang” để chiếm đất ở xã Đồng Tâm và giết cụ Lê Đình Kình ở Hà Nội, dùng “lực lượng vũ trang” để chiếm đất khu du lịch sinh thái ở Phú Yên, dùng “lực lượng vũ trang” để phá chùa Liên Trì, dùng “lực lượng vũ trang” để xua dân ra khỏi mảnh vườn và căn nhà của dân ở Thủ Thiêm, ở vườn rau Lộc Hưng, dùng “lực lượng vũ trang” để bắt người bỏ vào tù tại Tịnh Thất Bồng Lai (có tên khác là Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ) và hàng nghìn vụ dùng “lực lượng vũ trang” để cướp đất giết người diễn ra trên toàn cõi đất nước Việt Nam thì quả là phù hợp với định nghĩa trên của viện ngôn ngữ học về chữ “giặc” vậy.
     Thế kỷ thứ 21 cũng có một thứ “giặc” chẳng khác nào “giặc” của thế kỷ 20. Đó là “giặc tháng hai” cùng bản chất và hành vi giống như “giặc tháng tư”. Đó là kẻ đã dùng “lực lượng vũ trang… gây tai họa cho cả một nước”. Giặc tháng hai không ai ngoài “giặc Nga” do một nguyên thủ quốc gia cầm đầu đã cướp của, giết hại dân Ukraina trong hơn một năm qua khiến cả bao nhiêu người dân vô tội phải chết, người sống thì phải “chạy giặc”.
     Mỗi năm cứ đến tháng Tư kẻ viết bài này lại miên man nghĩ “chuyện này chuyện nọ” rất linh tinh. Năm nay đã là năm thứ 48 ngày “giặc” chiến thắng. Tôi lạm bàn chữ “giặc” là như thế. Đúng sai? Sai đúng?
     Câu kết: “Giặc tháng Tư” và “giặc tháng Hai” đều có một nguồn gốc chung là: giặc +

 

– Phong Châu

(Tháng Tư, 2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.