Hôm nay,  

Chuyện vãn [Trích đoạn]

28/05/202313:48:00(Xem: 2181)
Truyện

Nam Bộ

Chương Ba

Nhà thì có nền có mái (1)
Chín cái lênh đênh (2)

 

***


    – Trông cậu có vẻ không được khỏe lắm?
    – Thế sao...
    – Da mặt trắng xanh. Mà hình như có sụt cân, phải không?
    – Vâng. Hai tuần trước bệnh trĩ tự dưng tái phát. May mà được cháu Thiên Di đưa đi cấp cứu kịp thời. Nhờ vậy mà chỉ sau một đêm chữa trị thì tình trạng ổn định, được cho về dưỡng ở nhà...
    – Ồ. Cô bé Thiên Di ấy sao...Năm nay Thiên Di lớn lắm rồi phỏng?
    – Cháu nó sinh năm 1991, anh ạ.
    – Vậy hả! Tớ tò mò một chút, được không?
    – Anh cứ tự nhiên.
    – Vừa nẩy ra một thắc mắc là sao cậu lại đặt tên cháu là Thiên Di nhỉ?
    – Ấy. Thiên Di, ra đi ngàn dặm, tới nơi khác sống cách xa quê hương đến cả ngàn dặm đường. Cái tên này đột nhiên đã nẩy ra trong trí tôi lúc ấy... Thực ra nó vốn sẵn mang nội dung của một dự tính cấp thiết trong tôi ở thời buổi ấy. Vậy mà càng về sau tôi lại chiêm nghiệm rõ ra rằng không những thế, nó vô tình còn là mốc điểm chi phối đến sự sống còn của cả gia đình tôi...

***

Phải đ
âu ăn xổi ở thì (3)

Như đã có lần thổ lộ với anh: Đại khái là tôi được thả ra từ trại tù cải tạo vào cuối năm 1981, một mình về tạm trú tại căn nhà trong khu Thanh Đa, quận Bình Thạnh. Căn nhà này vốn được cho phép mua hồi bố tôi làm đốc công của Tổng Cục Gia Cư trước Bẩy Lăm. Ở tạm là vì đã có sẵn giấy báo là phải thu xếp ngay để đi vùng kinh tế mới ở nông trường Phước Bình, Phước Long. Vợ con vốn trước đấy, trong thời gian tôi ở tù, đã phải co cụm lại mới mong sống còn, rúm ró về cư ngụ nhà mẹ vợ; mình tôi vác xác đi kinh tế mới.
    Nhưng chỉ mấy tháng sau là ốm liệt giường, sốt rét trọc cả đầu, nên tôi kiếm đường trốn về Sàigòn. Bà mẹ vợ phải thu xếp cho cả gia đình tôi, lúc ấy mới chỉ có đứa con gái đầu là Gia Trung, 3 nhân mạng nhét vào một căn phòng kín đáo trên lầu một. Thế rồi vợ chồng cứ thế mà bươn chải suốt cả ngày: Vợ đi may vá cho người ta, chắt bóp một thời gian để thuê rồi sau đó mua luôn được chiếc máy may cũ mèm mà vẫn để tại tiệm của người ta, vừa nhận đồ sửa vừa may quần áo mới bán sỉ cho các nơi đặt hàng. Còn tôi vì trốn lánh từ nông trường về nên cùng lắm thì sáng sớm trời còn tối mịt đã rời khỏi nhà, cho tới khuya, thường là gần nửa đêm mới dám mò về. Ban đầu được một anh bạn quen từ trong tù cho phụ chạy xe ba gác, sau thuê chiếc xích lô chạy riêng. Cứ thế, trên hai năm sau, mới cố mua chiếc Honda Dame cũ chạy mối; trong thời gian đó tôi cũng phải mánh mung mua dần được mấy thứ giấy tờ tùy thân hợp lệ thủ thân để mỗi khi đi đường ngộ nhỡ bị xét hỏi bất ngờ.
    Đến đầu năm 1985, vợ chồng tôi ăn nên làm ra vượt bực: Vợ tôi điều khiển một tiệm may, ban đầu quần quật tự quản bằng tay nghề khéo; sau nhờ tôi bắt được mối thầu dây chuyền từ những con buôn chuyên mua trực tiếp đồ cứu trợ của thân nhân gửi về được bán lại ngay tại phi trường Tân Sơn Nhất. Tất cả đều là hàng xịn, mua một bán lời ba, năm! Chừng một năm là vợ chồng tôi đã banh ra mở thêm những 2 tiệm nữa: Một chuyên bán quần jean, áo Polo thời trang xịn của Mỹ bậc nhất tại Sàigòn hồi đó, ngay ở đại lộ Trần Hưng Đạo cũ. Hai là tiệm vàng, chuyên phân kim, đáp ứng với phong trào đang cần các thứ trang sức mang theo người để đút lót mong giữ được mạng sống trên đường vượt biển, vượt biên lậu.
    Sau này nghiệm lại mới thấy rằng bộc phát nhanh như vậy thì ắt rồi sẽ gặp trở ngại. Số là cả vợ lẫn chồng cứ thế mà bươn chải không ngừng nghỉ, trong khi con so mới sinh chưa đầy năm, bắt buộc phải mướn đỡ một cô bé nuôi mười mấy tuổi mới từ quê lên thì mới được giá rẻ. Một buổi tối 9 giờ có chuyện tạt qua nhà, đúng lúc bé Gia Trung một mình lầm lũi bò ra đầu cầu thang, nếu tôi đỡ không kịp thì nó đã hụt rớt lăn trên những bậc thang dốc xuống tầng trệt!
    Đang mệt mỏi mà bụng thì đói lả, tôi bỗng dưng nổi giận hét lớn gọi cô bé người làm. Nó bận làm gì chẳng biết, chạy đến nơi thì bị tôi điên tiết đá cho nó một cái vào mông. Con bé người làm lẫn Gia Trung con tôi đều khóc thét lên, khiến anh hai của vợ tôi ở căn phòng lầu bên cạnh bước ra thấy thế thì đột buông nặng những lời chửa rủa, làm như sẵn dịp anh ta muốn trút ra những bực tức dồn nén trong lòng lâu nay vì tình trạng vợ chồng tôi về ở lậu, khiến gia đình anh ta phải ép bụng nhường bớt phòng. Rồi khi bước xuống nhà trệt, anh ta chưa đã nư, tiện chân đá chiếc Honda của tôi đổ lăn kềnh, xăng bật đổ ra lênh láng!
    Bà mẹ vợ tôi chạy ra hết lời can ngăn con trai, con rể. Nhưng riêng phần tôi lúc ấy tự nghiệm thấy tình thế như nước đổ đã tràn khỏi ly, lại còn lo rằng nhân dịp này ông anh vợ dám báo công an là tôi trốn từ vùng kinh tế mới về ở lậu nữa; mặc dù tôi đã chịu 'chung' hàng tháng đều lâu nay để cho tên công an khu vực lơ đi! Thế là tôi đã thấy cần dứt khoát trong bụng là phải ra ở riêng gấp, càng sớm càng an toàn.
    Tiện mấy ngày trước có được người bạn hàng giới thiệu đến một căn nhà nép sau ngõ hẻm góc Kỳ Đồng-Trương Minh Giảng. Vào xem thì thấy đấy là căn nhà mái ngói đỏ sậm màu rêu, nằm khuất nẻo ngay sát một căn biệt thự mới xây bên ngoài, tính từ góc đường đi vào. Thăm hỏi một lượt, tôi biết thêm nhiều chi tiết về căn nhà này: Nó cũ cũng đến ít nhất cả nửa thế kỷ rồi, trước 75 căn nhà này vốn đây được dùng làm căn cứ giao liên bí mật của đường dây nằm vùng, bây giờ bị bỏ hoang lâu vì nghe nói có ma ám gì đó. Nhưng đang trong hoàn cảnh bí lối, dù mẹ vợ gia sức cản ngăn, tôi đành liều đặc cọc mua và tức khắc chở vợ con từ căn gác xép của nhà mẹ vợ đến ngay, rồi nhờ thợ sửa sang sơ lại gấp. Thợ sửa vài ngày xong. Lúc thanh toán tiền công, họ trao lại tôi một gói giấy dầu cũ đầy bụi bậm; trong ấy có bộ bài tứ sắc và chiếc nanh heo rừng, đầu lớn bịt bạc nối với một sợi dây lụa, dường như để đeo vào cổ. Anh thợ sửa nhà còn góp ý theo kinh nghiệm cá nhân: Đây có thể là thứ mà người ta 'yểm' ở trên góc cột kèo cao sát gần mái nhà!
    Nghe vậy, vợ tôi ớn sợ. Còn tôi sẵn tính bướng quen nên cố 'cương' mở miệng trấn an vợ để trì hoãn bằng cách bảo là cứ ở đại, xem sao cái đã. Mà quả thật, vợ chồng dù đều chộn rộn trong lòng đấy nhưng thực tế thì gia đình tôi đang phải ở thế bó buộc 'cố đấm ăn xôi', nấn ná cư ngụ riết rồi sau mấy tháng vẫn được yên ổn, thấy chẳng có gì lạ xẩy đến cả. Chỉ khổ một cái là ở thế của vợ tôi bắt buộc phải cẩn thận hơn trước, nghĩa là chịu khó mỗi sáng đưa con ra tiệm cùng với nhỏ người làm để tiện luôn ngó chừng. Và cứ thế, đầu tắt mặt tối từng ngày như vậy cũng đã khiến phai nhạt dần đi nỗi sợ hãi trong tâm trí của vợ tôi.

***

Ng
àn dặm ra đi (4)

Lu bu quay cuồng trong cuộc sống hằng ngày, thế mà trong thâm tâm tôi vẫn luôn và càng ngày càng nhận thấy rõ mình chỉ đang sống ở bên rìa xã hội này, mặc dù vợ chồng tôi càng ngày càng kiếm tiền một cách dễ dàng hơn bao giờ hết, và đồng thời cũng vẫn chịu 'chung' cho không những đủ mọi thứ công an phường – khóm – quận mà phải nín nhịn ngọt nhạt với hàng xóm láng giềng để mua lấy tình trạng yên thân mong manh từng chập: Từ giấy tờ tùy thân đến nhà ở và những đường dây buôn bán chui; trong ấy, giao tế bao giờ cũng phải luôn mềm mỏng xí xóa sao cho luôn bằng mặt chứ ít khi trong lòng hể hả vui thực sự, mục đích là để mọi thứ được trót lọt một cách lửng lơ...
    Thoắng một cái, mấy năm trôi tuột qua mau, đến sự kiện chấn động toàn thế giới, khối cộng sản quốc tế tan rã năm 1990 ập tới. Trong khi ấy, cái xã hội của chính trên lãnh thổ dân tộc mình vốn đã nhầy nhụa vận hành lâu nay, bấy giờ còn xem ra lại càng thêm rối mù hơn nữa. Tôi thấy mịt mờ tương lai trước mặt, chẳng những cho cá nhân tôi mà cả gia đình.., nhất là cho con cháu tôi.
    Và đầu năm 1991, đứa con gái thứ hai của vợ chồng tôi chào đời.
    Độ tháng sau, tên công an quen trong đường dây buôn bán ở gần nhà tự dưng đưa tới giấy báo chính thức bảo tôi lên nộp đơn xin xuất ngoại theo diện HO. Hắn sốt sắng đưa giấy báo này rõ rệt là để nhận 'hoa hồng' và còn thòong một câu rằng muốn 'bôi trơn' cho trót lọt thì cứ việc cùng hắn từng chặng từng chặng tiến tới. Rõ rệt là hắn đang trâng tráo mong dẫn mốt để hưởng lợi. Còn tôi và gia đình cứ như kiểu này thì chả biết theo đuổi và chi tới bao giờ mới thực sự hiện thực đây!
    Nghe hắn rỉ tai mà tôi vừa chán ngán vừa tủi hổ trong ngập ngừng. Còn vợ tôi thì sốt nóng nên nhất định lôi tôi đến một bà 'đồng' hiện đang nổi tiếng bói toán linh nghiệm. Bà ta đã phán một câu ngon lành: " Đi biển là chết. Nhưng ngược lại, sẽ rời Việt Nam mà có võng lọng trống kèn tiễn đưa!" Tôi bật cười.

    Đúng lúc ấy, vợ tôi hỏi chuyện đặt tên cho đứa con gái thứ nhì mới sinh để thiết lập giấy khai sinh, tôi liền buột miệng: Thiên Di.
    Và một ông bác họ của tôi ở Hànội vào Sàigòn thăm con cháu ông đã rời Bắc đi làm việc trong Nam lâu nay, nhân dịp đến nhận họ hàng với tôi. Được cái tính tình điềm đạm và rất thân mật với bố tôi từ thuở nhỏ ở quê, ông ấy đã không những chẳng tỏ ra "nhận họ nhận hàng" (5) theo thói đời đã và đang từng thực hiện cả từ trên mười lăm năm nay mà còn xem ra thực sự chân tình đối với con cháu được may mắn gặp lại. Nghe đến chuyện đi HO của tôi, ông gợi ý: Đằng nào giấy tờ thì cũng phải gốc từ cơ quan trung ương quyết định, vậy thì sao tôi chẳng nên ra Bắc một chuyến với ông. Bàn bạc với vợ xong, tôi quyết định theo ông bác ấy ra Hànội, ngụ tại nhà ông trên một tháng. Ông ấy dẫn tới một vị tóc đã bạc đang cư ngụ với vợ căn nhà cũ kỹ trong một ngõ hẻm cụt. Nghe sơ qua vấn đề, vị ấy trao cho tôi tấm danh thiếp, bảo lên đó sẽ giải quyết cho.
    Sáng hôm sau, tôi lên trụ sở bộ Quốc Phòng, trình danh thiếp và được hướng dẫn tới văn phòng cục xuất nhập cảnh. Tôi bước vào thì chính vị ấy đeo lon đại tá từ bàn giấy đứng dậy tiếp, nhận đủ giấy tờ cần thiết ông ta hẹn gặp lại. Ba ngày nữa, tôi trở lên thì vị ấy trao tay cái giấy chính thức cho phép cả gia đình tôi bốn nhân khẩu được xuất cảnh theo chương trình HO.
    Sững sờ vì có bao giờ ngờ được lại xuôi rót như vậy, tôi thấy phải cụ thể thể hiện lòng biết ơn của mình nên hội ý ngay với ông bác họ ... Cuối cùng được vị ấy trả lời là chỉ đồng tình sẵn sàng dự một bữa tiệc nhỏ tại nhà riêng, như để tôi thỏa mãn cách thức tạ ơn mà thôi.
    Như vậy, chưa đầy một tuần, việc hệ trọng nhất ấy kết thúc tốt đẹp quá sức tưởng tượng. Ông bác họ điềm đạm đề nghị tôi nên nhân dịp hiếm này về thăm quê cha đất tổ, họ nội ở Nam Định và họ ngoại ở Phủ Lý, cho lần đầu tiên trong đời. Tôi hứng chí đồng ý ngay; và ông bác có lẽ cảm thấy an ủi nên đã chịu khó chủ động hướng dẫn đường đi nước bước cho tôi thông suốt chuyến ngoái lại cội nguồn này.
    Về lại Sàigòn, tôi hưởng thêm một tin vui bất ngờ nữa: Ông bác ngoài Hànội gọi vào cho biết người em của ông đã sang định cư ở Mỹ từ năm Bẩy Lăm, bây giờ nghe nói gia đình tôi vừa được phép xuất cảnh, ông ấy bắn tiếng là sẵn sàng đứng tên bảo lãnh theo diện HO. Và ông bác ở Hànội đã tự động trực tiếp vội để gặp hỏi thăm xem sao thì vị đại tá kia liền cho bổ túc ngay chi tiết có người bảo trợ vào hồ sơ xin xuất cảnh của tôi!
    Thế rồi mấy tháng sau, tháng 10-1991 (ngày nào, tôi quên mất rồi), đúng vào buổi gia đình tôi ra phi trường thì ông chủ biệt thự sát bên đường đột ngột mất, họ tổ chức đưa đám tang rình rang đến độ thuê cả đội nhạc tây lẫn một phường bát âm, cờ quạt muôn màu tở mở, kèn trống tây ta vang lừng cả ngày trước ngõ nhà tôi!
    Bà vợ tôi hứng khởi quá đến độ lớn tiếng phát ngôn với họ hàng đưa tiễn gia đình tôi rằng bà thầy đã phán đúng phóc từ nửa năm trước là chúng tôi ra đi giữa đám rước trống kèn tưng bừng! Tôi trong bụng nghiệm thấy 'nhận vơ' như thế có phần khiên cưỡng o ép đấy, nhưng chỉ khó chịu trong lòng mà yên lặng lờ đi.
    Gia đình tôi bốn nhân mạng, mỗi người cầm một cái túi đựng hồ sơ ngoài đề ba chữ tắt của Cơ quan Di Trú Liên Hiệp Quốc to tổ bố IOM, khuân lỉnh kỉnh hòm rương, lếch thếch lên chiếc máy bay thương mại quốc tế khổng lồ của hãng Cathay Pacific Airlines, từ phi trường Tân Sơn Nhất sang Hồng Kông, nghỉ mấy tiếng đồng hồ rồi lên bay tiếp sang đến Seattle đúng quá khuya về sáng.
    Rời phi cơ, chúng tôi lạnh run, lủi thủi mà ngơ ngáo trong đoàn khách lũ lượt. Chỉ chốc lát là khách cùng chuyến tản mát mất tiêu, hành lang chỉ chỏng trơ những hàng ghế, lặng  như tờ! Kiếm một góc tường sát quầy soát vé trống trơn, vội moi từ hòm rương lỉnh kỉnh ra mấy bộ quần áo để quấn cho vợ và hai con, vậy mà xem ra họ vẫn đều run cầm cập, tôi cũng có khác gì đâu nhưng tình thế vẫn phải cứ một mình xoay trở, mà trong bụng rối beng chẳng biết phải làm gì nữa, cứ vẩn vơ quay trước ngoặt sau...
    Bấn bíu như vậy chẳng còn biết bao nhiêu sau mới thấy có một anh mặc chiếc áo khoác đề chữ IOM, anh ta gốc người Phi Luật Tân đến dòm chùng rồi lên tiếng hỏi: Có phải gia đình đi HO đấy không. Tôi lõm bõm nghe vậy, gật đầu lia lịa. Anh ta vội đi kiếm mấy chiếc áo khoác phát cho rồi bảo rằng người bảo lãnh đã rời nhà mà chưa kịp thông báo, bây giờ có muốn về nơi phía nam nắng ấm không. Tôi gật đầu đại. Thế là khoảng độ trên 6 giờ sáng, gia đình tôi được anh ta hướng dẫn lên chiếc Boeing 747 của Alaska Airlines. 8:45 sáng đến phi trường John Wayne. Phái đoàn ông Nguyễn Hậu của Hội Tù Nhân Chính Trị Nam Cali ra đón đem ngay về một căn chung cư ở thành phố Garden Grove. Gần trưa, bà Kiều Mỹ Duyên rộn ràng tới, đem theo nào cơm gà, những lon nước , nào chè, bánh kẹo, nào khăn tắm, áo khoác lạnh... Bà ta tíu tít thăm hỏi, vừa trao đồ ăn thức uống vừa tự giới thiệu mình là chủ một cơ sở địa ốc, đã cộng tác với hội này để đặc biệt cung cấp những căn chung cư đang trong thời kỳ đợi bán để làm nơi tạm cư cho gia đình HO đến tái định cư tại địa phương này.
    Từ đó, gia đình tôi mỗi ngày sáng ra liền có các thiện nguyện viện của hội bảo trợ đến dẫn đi. Đi khám và thiết lập hồ sơ sức khỏe. Đi ghi danh ở sở xã hội địa phương và nhận phiếu trợ cấp thực phẩm hằng tháng. Đi chợ mua thực phẩm cũng như những vật dụng cần thiết hằng ngày. Đi tập lái xe hơi. Đi ghi danh học: trẻ thì vào học phổ thông; còn người lớn thì  buổi tối đến trung tâm học bổ túc (adults school ) gần nhà để vào lớp nghe và nói tiếng anh căn bản (ESL) rồi tham dự tiếp sang các khóa huấn luyện nghề cấp tốc để có thể được nhận vào làm công nhân loại assembly tại các hãng xưởng quanh vùng.
    Cứ lục đục, lấn bấn, lu bu như vậy, mấy tháng trời trôi qua nhanh như chớp mắt.
    Hai vợ chồng tôi bắt đầu những bước chập chững cụ thể làm quen vào xã hội mới tái định cư: Lên trụ sở hội, vợ tôi phụ dọn dẹp văn phòng, nấu nướng, còn tôi thì làm thư ký phụ trách việc ghi biên bản họp và thành nhân viên trong nhóm thiện nguyện viên thay phiên nhau trực văn phòng cho hội.
    Nhưng chỉ một năm sau thôi là vợ tôi đã bắt kịp nhịp khai mở cuộc sống của gia đình tôi ở nơi đây: Bắt được việc phụ bếp rồi trở thành bếp chính của một nhà hàng trong khu trung tâm Little Sàigòn, và cứ thế mà cố ấy lầm lũi tiến lên bước ra riêng tự mình mở một nhà hàng bán thức ăn chay.
    Riêng tôi thì cứ vừa lẹt đẹt vừa lêu bêu.
    Một hôm đi làm mãi tối mịt mới rời sở, lụi đụi thế nào tôi lên lầm xe bus công cộng đi lạc xuống mãi tận phía đông thành phố Santa Ana, mà trong túi chả còn đồng bạc nào nữa, đành phải cuốc bộ. Đằng nào cũng trễ rồi, tôi vừa nhủ thầm trong lòng vừa thong thả bước lên cầu bắc qua sông Santa Ana.

Bước tới cầu chân đã quá rã rời
Đường về nh
à sao xa ôi vời vợi
Chung quanh ta người xe cứ lấn tới
dưới cầu nước cũng vội miên man…

Giữa đất trời cuộc sống thản nhi
ên lan
tỏa nhiệt m
ãi đến muôn vàn phương hướng...
Ta phải tự bắt nhịp v
ào cộng hưởng
th
ì cuộc đời mới hội chứng vươn cao.

Như dòng nước kia – trăng sao huyền ảo
dải ng
ân hà giục giã rảo bước lên
phía trước mặt chờ ta chiếm ưu tiên
những cơ hội sẵn trao truyền nguồn sống.

H
ãy nỗ lực mới tràn đầy năng động
tự sức m
ình cương quyết chống tai ương
d
ù gian lao đến mấy cũng chẳng màng
sinh
-tử đã xếp vào chương sách cũ.

Bài thơ "Rõi theo bóng Ngân Hà" này tôi đã viết ra vào khuya hôm ấy khi trở về nhà. Và đầu năm đó, năm 1993, vợ tôi sinh bé Ngân Hà.

Phạm Quốc Bảo
[Trích Chương Ba, cuốn Chuyện Vãn, sắp xuất bản]
22/05/2023
 
Chú thích:

(1) Ngôi nhà thì có nền có mái, con cái thì có mẹ có cha.
(2) Ba chìm bẩy nổi chín cái lênh đênh.
(3) Phải điều ăn xổi ở thì, Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày! Hai câu thứ 509 & 510 trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
(4) Câu hát "Nước non ngàn dặm ra đi..." của ca khúc thứ 10 trong trường ca 'Con Đường Cái Quan' của Phạm Duy.
(5) Nhận họ chỉ với mục đích được nhận và vơ vét đủ mọi thứ 'quà' mang về Bắc! Trường hợp ấy đã tràn lan xẩy ra cả trên một thập niên đầu (1975-1985) tại hầu hết những gia đình còn có bà con từ Bắc vào. Khách quan nhận định, chẳng qua cũng chỉ vì cuộc sống họ bần cùng quá rồi thêm sống lâu nhiễm nặng nếp văn hóa lật lọng, thiếu nền tảng nhân cách dưới chế độ ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.