Hôm nay,  

Chỉ vì mê nhạc Bolero

26/09/202307:37:00(Xem: 4279)
Truyện

woman-listening
Tôi không biết hát nhưng thích nghe nhạc và thuộc cả một “kho tàng” nhạc đủ loại của nhiều tác giả như Phạm Duy, Văn Phụng, Hoàng Trọng, Trịnh Công Sơn…( còn nhiều nữa, không thể kể hết) và đặc biệt tôi cũng mê dòng nhạc Bolero.
    Tuổi lên 10 chẳng biết gì thế mà tôi đã biết yêu nhạc Bolero rồi. Bản nhạc đầu tiên tôi thích là “Mấy độ Thu về”. Hôm theo bố mẹ đến nhà người bác chơi ở Thị Nghè, trước khi đi vào con hẻm nhà bác, tôi thấy một tiệm sách báo ngay vỉa hè để một kệ gỗ kẹp những tờ bản nhạc, thế là trong lúc người lớn mải chuyện trò tôi xin tiền mẹ và đi ra tiệm sách báo ở ngoài đường để tìm mua bài hát “Mấy độ Thu về” và còn ngắm nghía lật xem những bài hát khác, tôi không hiểu nhạc, chẳng quan tâm đến những nốt nhạc cao thấp trên những dòng kẻ ấy là gì mà chỉ đọc lời, hết bài này đến bài kia và ước gì có nhiều tiền thì sẽ mua thêm nhiều bài hát nữa cho đến khi mấy chị con bác phải chạy ra ngoài ngõ tìm tôi vì tưởng tôi đi lạc.
    Thời đó chưa có ti-vi, chỉ có radio mà sức lan truyền âm nhạc đến với thính giả cũng thật mãnh liệt. Tôi “già” trước tuổi, không biết, không thuộc một bản nhạc thiếu nhi nào mà nhạc tình cảm Bolero đi thẳng vào tim tôi từ lúc bé. Hàng xóm cách nhà tôi một con hẻm có mẹ con anh Ngâu, nhà chỉ có hai mẹ con. Anh Ngâu lớn hơn tôi đúng một con giáp, tôi gọi anh bằng “Chú” vì anh Ngâu bằng tuổi chú ruột của tôi chứ tôi chưa biết đến bài hát “Đừng gọi anh bằng Chú”.
Là hàng xóm từ lâu nhưng năm 15 tuổi tôi mơí phát giác ra chú Ngâu biết đàn biết hát nhờ một hôm đi qua nhà chú chợt nghe tiếng đàn vọng ra một điệu nhạc quen quen: “Đường về đêm nay vắng tanh. Dạt dào hạt mưa rớt nhanh…” Tôi thấy chú Ngâu ngồi bên chiếc bàn con cạnh khung cửa sổ, dáng chú gầy gầy với mái tóc lòa xòa đang cắm cúi với cây đàn. Tôi đẩy cánh cổng thấp bằng gỗ, hấp tấp bước vào nhà đến bên chú ngạc nhiên và mừng rỡ:
    – Cháu không ngờ chú Ngâu đàn hát hay thế. Xong bản “Kiếp nghèo” chú đàn cho cháu nghe bài “Mấy độ Thu về” đi.
    Chú Ngâu cũng ngạc nhiên vì tôi xông vào nhà bất ngờ, nhưng chú vẫn nhớ ra và bảo tôi:
    – Cháu ra khép cổng lại kẻo chó vào nhà chú, con chó con nhà bác Tài đối diện hay lẻn sang nhà chú ăn vụng lắm.
    Tôi thật đoảng, tự nhiên vào nhà người ta mà còn quên đóng cổng. Khi tôi trở vào chú Ngân từ chối:
    – Chú không có bản nhạc ấy nên không đàn hát được.
    Thế là tôi chạy về nhà lấy tờ nhạc “Mấy độ Thu về” mua đã mấy năm nay mà tôi vẫn giữ gìn cất làm kỷ niệm, thỉnh thoảng mang ra hát một mình và đưa cho chú Ngâu rồi ngồi nghe chú đàn hát say sưa. Tiếng đàn  guitar réo rắt êm đềm và tiếng chú hát trầm ấm rất hay. Nhà có bài nhạc nào tôi lần lượt mang sang đưa cho chú Ngâu đàn hát cho tôi nghe mà không biết chán. Nhưng chú Ngâu đã chán:
    – Cháu à, chú còn phải đi làm chứ có rảnh ở nhà đâu mà đàn hát cho cháu nghe chơi hết bài này đến bài kia, mà cháu lại tốn tiền mua nhạc nữa. Đài phát thanh Sài Gòn có mục “Tân Nhạc Yêu Cầu”, cháu tha hồ yêu cầu bản nhạc nào mình muốn.
    Tôi thích quá hỏi chú cách gởi thư về tiết mục nhạc yêu cầu này. Đến bây giờ tôi mới biết chú Ngâu làm việc ở đài phát thanh Sài Gòn, xưa nay hằng ngày tôi vẫn thấy chú Ngâu đi làm bằng chiếc xe mobylette rồi tiến tới chiếc xe Honda cũ mèm mua lại của ai, nhưng tôi không biết chú làm gì ở đâu. Chắc thấy tôi mê nghe nhạc quá chú Ngâu thông cảm “giúp đỡ”:
    – Cháu muốn yêu cầu bài hát nào đưa chú khỏi phải tốn tiền tem thư,  bạn chú làm ở phần này sẽ “ưu tiên” sớm cho cháu.
    Thế là tôi yêu cầu liên tiếp mấy bài hát ruột: Mấy độ Thu về, Giòng An Giang, Nhớ Bến Đà Giang, Lối về Xóm nhỏ, Trăng rụng xuống cầu. Bài nào cũng ghi “Thân tặng chú Ngâu” ngầm để trả công chú đã đưa thư tôi đến mục nhạc yêu cầu này. Lần đầu tiên tôi nghe từ đài radio đọc tên Nguyễn Thị Bông yêu cầu bài hát này để tặng chú Ngâu tôi đã sung sướng vui mừng như trúng sổ số. Tuần nào tôi cũng có những bài hát để yêu cầu và chờ đợi nghe, chờ đợi tên tôi được đọc lên cùng với lời tặng tên chú.
    Tôi lớn thêm 1 tuổi tôi càng yêu thêm nhiều bản nhạc Bolero. Thời chinh chiến tôi yêu những bài tình ca về người lính và những bản nhạc tình yêu đôi lứa mơ mộng , lãng mạn. Chưa yêu ai, chưa thất tình mà tôi đã u sầu với: Tình yêu trả lại trăng sao, Sao chưa thấy hồi âm, Lẻ bóng…. Tôi vẫn đưa tận tay chú Ngâu lá thư gởi cho mục “Tân nhạc yêu cầu” của đài phát thanh Sài Gòn, như thói quen thường lệ bấy lâu nay, bài nào dù nhạc lính hay nhạc tình yêu tôi cũng ghi tặng chú Ngâu vì ngoài chú ra tôi chẳng biết tặng ai. Nhưng hình như chú Ngâu có vẻ ngại ngùng chú nhắc nhở tôi:
    – Từ giờ đừng ghi tên chú trong bản nhạc cháu yêu cầu nữa.
    Tôi cụt hứng và không hiểu tại sao hơn một năm nay tôi vẫn ghi tặng chú mà bây giờ chú mới lên tiếng chối từ? tôi có làm gì sai không? Có làm chú buồn gì không? Người ta yêu cầu nhạc ai cũng ghi lời tặng người yêu hoặc bạn bè, tôi cũng thế, tôi xem chú Ngâu vừa là tình hàng xóm vừa là tình chú cháu. Bây giờ chú không thích thì tôi sẽ tìm cách khác để tặng vậy. Tôi liền nghĩ ra cách, vẫn yêu cầu những bài hát Bolero trữ tình và với lời ghi tặng mơ hồ là “Cho một người anh trong mộng” hay “Gởi tặng anh giấu tên” cho thêm phần lãng mạn, cho giống người ta, cho lửng lơ bí mật chứ người anh ấy, người trong mộng ấy tôi nào có.
    Thế mà vẫn không yên, chú lại nhắc nhở:
    – Cháu mê nhạc thì không sao nhưng ghi lời tặng… chỉ làm khổ người ta.
    Tôi vẫn chẳng hiểu sao chú bỗng khó tính thế, ít lâu sau chú bảo tôi:
    – Bạn chú không còn phụ trách mục “Tân Nhạc yêu cầu” nữa. Từ giờ trở đi cháu gởi thư thẳng tới đài phát thanh Sài Gòn.
    Chắc chú bận không muốn đưa thư giùm tôi nên nói thế, lúc này tôi đã 16 tuổi, viết vài dòng thư, ghi địa chỉ, dán một con tem gởi đi quá dễ dàng, tôi  không làm phiền chú Ngâu nữa. Nhưng một hôm tôi đi qua nhà chú lại thấy chú ngồi đàn bên khung cửa sổ, với mái tóc lòa xòa ấy. với dáng dấp gầy gầy ấy, bài hát mà tôi đang yêu thích: “Ai cho tôi tình yêu”, tôi lặng người đứng yên ngoài cổng, đến câu cao trào tha thiết lâm ly: “Nhưng biết chỉ là mơ, nên lòng nức nở…” tôi  mở cổng xồng xộc vào nhà làm chú Ngâu bừng tỉnh giật mình vì bị phá vỡ phút giây đang thăng hoa cảm hứng với bài hát. Thấy mặt chú ngơ ngẩn tôi vội trấn an chú:
    – Cháu đã đóng cổng rào, con chó nhà bác Tài không vào được đâu.
    Chú Ngâu gắt nhẹ:
    – Cháu vào đây làm gì?
    Tôi trả lời dõng dạc như một điều đương nhiên:
    – Vào nghe chú hát. Chú hát nốt bài “Ai cho tôi tình yêu” đi. Đến câu “Thương còn đi, yêu thì chưa đến. Tên gọi tên tình chưa đỗ bến, nẻo mô mà tìm”.
    Chú Ngâu bỗng nghiêm trang:
    – Chú hết hứng hát rồi, cháu về đi. Lần sau đừng tự tiện vào nhà chú nữa.
    Rõ ràng là chú Ngâu đuổi tôi. Tôi có làm gì lỗi đâu? Tôi vẫn từng vào nhà chú như thế này mà, chú vẫn từng đàn hát cho tôi nghe mà. Tôi ấm ức vì bài ca dang dở, vùng vằng bước nhanh ra cửa, cố tình mở toang cánh cổng và cầu mong con chó nhà bác Tài chạy sang để trả thù chú Ngâu.
 
***
 
Tôi lấy chồng, rời xa xóm. Hai năm sau gia đình cha mẹ tôi cũng rời xa xóm, dọn lên ở vùng Khánh Hội. Khi tôi có dịp về thăm xóm cũ, nhà chú Ngâu đã đổi chủ, chủ mới xây nhà hai tầng, làm hàng rào song sắt cao hơn hàng rào gỗ thấp ngày xưa. Tôi hỏi thăm bác hàng xóm thân quen thì được biết chú Ngâu lấy vợ muộn màng lúc ngoài 40 tuổi dù có vài mai mối, ai cũng tưởng chú ấy tuổi vừa già vừa xấu nhà lại nghèo mà kén chọn  nhưng hóa ra chú Ngâu thất tình. Mãi sau mới chịu lấy vợ. Tôi mỉm cười:
    – Bác đùa chứ? Ngày xưa cháu thấy chú ấy rất yêu đời lúc nào cũng đàn hát bên song cửa.
    Bác hàng xóm quả quyết:
    – Thì bởi yêu đàn yêu hát và yêu cả người con gái nào đó cũng thích nhạc như mình nhưng mặc cảm chênh lệch tuổi tác, nhà lại nghèo rớt mồng tơi nên chẳng bao giờ dám ngỏ lời, đành ôm mối tình câm. Chính bà mẹ kể tôi nghe thế đấy.
    Tôi bàng hoàng. Không lẽ ngày ấy chú Ngâu đã yêu tôi?! Sao ngày ấy tôi không đọc trong đôi mắt buồn buồn của chú, không lắng nghe trong giọng nói ngại ngùng của chú đã ẩn chứa những gì? Tôi đã vô tình và ngây thơ đi vào cuộc đời chú, thân mật gần gũi, từ tình hàng xóm chú đã nảy nở tình yêu và biết đâu chú ngộ nhận tưởng rằng tôi cũng có cảm tình với chú qua những lần đến nhà nghe chú đàn hát và qua những lời tôi tặng nhạc yêu cầu. Chỉ vì mê Bolero mà tôi là người có tội, đã cho chú Ngâu một tình yêu vô vọng.
    Dưới mắt tôi chú Ngâu chưa bao giờ xấu, tôi thích dáng vẻ nghệ sĩ của chú khi ôm đàn cất tiếng hát, tâm hồn chú trẻ trung đầy năng lượng. Nhưng chú Ngâu ơi, xin lỗi chú, cháu không hề yêu chú. Tôi đi qua căn nhà chú Ngâu lần nữa. Bỗng ước rằng căn nhà này vẫn là căn nhà năm cũ với tôi tuổi 16 mới lớn và với chú Ngâu 28 tuổi.  Chú Ngâu đang ôm đàn hát bên khung cửa sổ, tôi sẽ đẩy cánh cổng rào thấp bước vào nhà, nhất định tôi sẽ bắt chú hát hết bài “Ai cho tôi tình yêu” mà hôm ấy chú đã mặc cảm ngại ngùng chối từ và đuổi tôi về. Chú sẽ hát với cả nỗi niềm và tôi sẽ hiểu, sẽ bâng khuâng xúc động. Xúc động vì tình yêu chú dành cho tôi, vì ân hận đã làm trái tim chú bị thương.
    Từ bé đến lớn tôi đã yêu dòng nhạc Bolero và tôi sẽ yêu đến hết cuộc đời những bài hát tình cảm quê hương, tình đời, những bài hát sầu thương bao chuyện tình hợp tan, chuyện tình đơn phương không trọn vẹn của muôn triệu người trên thế gian này trong đó có chú Ngâu hàng xóm của tôi.

 

– Nguyễn Thị Thanh Dương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.