Hôm nay,  

Ngày mai trời có sáng?

26/09/202308:41:00(Xem: 3734)
Truyện

ao tim ben cua
Chị xinh đẹp, vẻ đẹp quyến rũ của con gái xứ Bình Thuận. Dáng người dong dỏng cao. Đôi mắt to, đen láy với nước da trắng hồng, mịn màng. Chiếc mũi dọc dừa cân đối với đôi bờ môi gợi cảm. Khuôn ngực đầy đặn, vòng eo thon vòng 3 nở nang cân đối rất nữ tính. Thời còn đi học chị là một bông hoa nổi bật rạng rỡ nhất trong toàn khóa học. Hết phổ thông chị vào Nam lập nghiệp cũng xin được một việc làm trong một công ty trong thành phố, thu nhập đủ trang trải cuộc sống.
    Thế rồi trời xui đất khiến thế nào chị lại bị lọt vào mắt xanh (À! Mắt không còn xanh nữa!) của một chú. Chú này hơn chị 20 tuổi. “Chú” tỏ ra lịch lãm, săn đón chị, chiều chuộng chị hết mực. Dày dạn trong tình trường nên chú tỏ ra rất sành điệu khi tiếp xúc với phụ nữ. Chị cũng xiêu lòng và thầm nghĩ từ nhỏ đến giờ ngoài cha mẹ mình ra chưa có ai thương mình, chăm sóc mình nhiều như thế! Chị chưa yêu ai bao giờ nên nghĩ rằng đó là tình yêu. Tuổi tác không lấy gì làm quan trọng miễn là hợp nhau, thương yêu nhau. Chị nghĩ rằng có lẽ chú “ anh” thương mình nhất trên đời! Anh kể với chị là anh có vợ con rồi nhưng không hợp, không có tình yêu nên đã ly thân và đang chờ ly hôn. Rồi hứa sẽ cưới chị trong nay mai.
    Chị tin anh vì nghĩ rằng anh lớn tuổi chững chạc, chẳng lẽ lại đi lừa trẻ con? Ở tuổi 18 của chị so với anh 38 thì chị vẫn là trẻ con. Hơn nữa chị tin anh vì trong các buổi tiệc tùng vui chơi cùng người thân và bạn bè anh ta cũng thường đem chị đi theo để ra mắt với mọi người. Có nghĩa là anh muốn đi đến công khai tình cảm với chị. Thế rồi chị có bầu và sinh đứa con trai đầu lòng kháu khỉnh. Anh nói để thư thư ít bữa anh giải quyết ổn thỏa rồi anh sẽ làm lễ cưới. Bốn năm sau, chị sinh thêm bé gái xinh xắn đáng yêu. Rồi anh lại nói với chị là để anh về hưu rồi mới cưới vì công việc ở cơ quan cũng quan trọng mà dính đến chuyện bỏ vợ cưới người khác thì không tiện cho bước đường thăng tiến của anh. Có ai yêu mà đợi về hưu mới cưới không? Vậy mà chị vẫn tin và sống vô tư hồn nhiên như thế cho đến lúc chị phát hiện ra anh vẫn bình thường với vợ con anh chứ không có chuyện ly thân gì hết. Dù muộn nhưng chị đã cũng đã quyết định chia tay dứt khoát với anh. Một mình nuôi nấng các con.
    Chị là người phụ nữ hiền thục, tháo vát nên làm ăn cũng được. Chị ra chợ kinh doanh thực phẩm tươi sống bằng cách bỏ mối và bán lẻ. Công việc đem lại thu nhập cũng đủ trang trải cho cuộc sống của ba mẹ con. Chị biết vén khéo, nhặt nhạnh, tích cóp được một ít vốn liếng, chị mua một căn nhà nhỏ còn thiếu ít nhiều chị vay mượn thêm rồi tiết kiệm trả dần. Các con đi học gần nhà, chị lo buôn bán kinh doanh ở chợ. Cuộc sống của 3 mẹ con xem ra như vậy cũng ổn.
    Điều không may xảy đến khi chị thấy trong người không được khỏe. Đi khám, phát hiện ra bị “K” giai đoạn 2. Thật là một bất hạnh ập xuống với gia đình nhỏ của 3 mẹ con chị. Căn bệnh khó chữa. Trong lúc chị là trụ cột chính. Các con còn quá nhỏ. Con trai 6 tuổi, con gái nhỏ mới 2 tuổi. Giờ làm sao đây? Chị suy nghĩ lung lắm, ban đêm nhìn các con ngủ say mà chị quặn thắt lòng. Không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới nếu cứ bị “K” giai đoạn muộn thì cơ hội chữa khỏi rất thấp. Chị nếu chẳng may hết số thì đã đành nhưng các con chị rồi sẽ ra sao? Ai sẽ thay chị lo cho chúng. Mẹ chị, bà ngoại của mấy cháu ở quê thì đã già yếu rồi! Không còn cách nào khác chị tìm liên lạc với anh để gửi hai đứa con nhưng bặt vô âm tín. Các bạn của anh biết điều đó, và chắc chắn là anh cũng biết nhưng anh đã làm lơ. Anh xem như chẳng can hệ gì đến mình. Anh phủi tay như phủi một cuộc tình, rứt bỏ hai đứa con mà hình hài chúng là do anh tạo nên. Không có hi vọng gì nữa chị đành mang các con về gửi vào một ngôi chùa ở quê. Gửi gắm các cháu cho các sư, dặn dò các cháu đủ điều, chia tay trong nước mắt để vào nhập viện chữa trị. Ngày tháng một mình chống chọi với bệnh tật trong bệnh viện. Và may mắn thay, phép màu đã đến! Tình hình mỗi ngày tốt lên với hi vọng và sức sống mãnh liệt. Chị khống chế được bệnh và hồi phục dần có lẽ là động lực lớn nhất đối với chị là các con. Chị khỏe lại dần và hồi phục. Có lẽ trong thâm tâm chị có một tiếng nói mạnh mẽ thúc dục chị rằng:
    – Mình phải sống! Các con đang chờ mình!
    Ngày xuất viện, chị trở lại chùa đón các con. Ba mẹ con lại tiếp tục cuộc sống như xưa. Chị cho hai cháu đi học lại gần nhà, chị lại ra chợ buôn bán để trang trải cuộc sống. Dù vật chất chị đủ sức lo cho các con nhưng chị vẫn thấy các con tội nghiệp vì thiếu thốn tình thương của người cha. Đó là một thiệt thòi lớn mà chị không biết làm gì hơn! Để bù đắp cho các con, chị thương con gấp hai, gấp ba lần để các con khỏi tủi phận. Các con của chị cũng rất ngoan. Chúng lễ phép và thương mẹ lắm! Không có cha mà được vậy âu cũng là trời tặng cho chị món quà lớn là các con ngoan.
    Rồi có một ngày đẹp trời do sự mai mối của những người bạn chị đã gặp được anh, một người đàn ông hiền lành, chịu thương chịu khó làm ăn giỏi giang. Anh cũng đã đi qua một lần đò, duyên tình gãy đổ và có tuổi thơ cô đơn trong bất hạnh. Từ nhỏ, ba mẹ li hôn, anh sống với bà ngoại . Lúc 11 tuổi đã bươn chải tự lập kiếm sống. Đến khi xây dựng gia đình anh về ở nhà vợ. Cũng lo làm lụng được bao nhiêu tiền đưa hết cho vợ. Siêng năng, chịu khó và thật thà. Rồi lần lượt ba đứa con anh ra đời. Cả thảy có hai trai, một gái. Anh làm việc có hiệu quả và có tâm nên được cân nhắc lên làm trưởng một bộ phận của công ty mộc sản xuất bàn ghế tủ giường. Làm việc cả ngày và đôi khi tăng ca thường xuyên theo nhu cầu công việc nên đem lại thu nhập cao. Vất vả là thế nhưng về nhà anh cũng xắn tay vào làm việc nhà, không chút nề hà từ nấu cơm, giặt giũ, rảnh lúc nào làm lúc đó rồi đưa đón các con đi học. Cuộc sống đang bình yên như thế thì đùng một cái vợ anh tuyên bố li dị. Anh chẳng hiểu nguyên nhân do đâu. Hóa ra người tốt, người giỏi không phải bao giờ cũng gặp may.
    Cuộc đời lại tiếp tục nói lời cay đắng với anh. Không có lựa chọn nào hơn, anh đành tuân theo ý vợ. Đành chấp nhận chia tay và chu cấp tiền bạc nuôi con theo yêu cầu của vợ anh. Anh ra khỏi nhà với đôi bàn tay trắng, lại kiếm một căn phòng trọ để tiếp tục sống và làm việc để lại có tiền gửi về nuôi dưỡng các con. Anh hiền lắm nên đôi khi bạn bè hay lợi dụng lòng tốt của anh nên mượn tiền nhiều lần không trả.
    Anh gặp chị: Người từng bị lừa tình, kẻ bị lừa tiền đã trao nhau cái nhìn cảm thông và thấu hiểu. Họ nắm tay nhau, truyền hơi ấm để dìu nhau đi trong quảng đời còn lại. Nước mắt rưng rưng, chị kể về những gì đã trải qua, chị mong muốn có một người thương yêu các con của chị vì các cháu thiếu thốn tình cảm người cha. Anh hứa sẽ bù đắp cho các cháu. Hai đứa con chị cũng quý anh, chúng ôm anh, anh vỗ về các con rất chân thành và trìu mến! Anh sẽ chăm sóc ba mẹ con chị bằng hết cả tấm lòng và trách nhiệm của người chồng, người cha. Và để thực hiện nghĩa vụ làm cha anh cũng cứ một tháng một lần anh lên thăm các con riêng của anh hiện đang sống cùng mẹ nó.
    Tôi nhìn cảnh gia đình mới của anh chị và cảm ơn cuộc đời lại mỉm cười với anh chị. Lòng cầu mong anh chị hạnh phúc, các con được nâng niu, nuôi nấng, và cho ăn học nên người. Mong hai anh chị, hai mảnh đời bất hạnh cô đơn gắn kết với nhau, sưởi ấm cho nhau, dìu nhau đi tiếp đoạn đường trần còn lại thật trọn vẹn.
 

– Hoàng Thị Bích Hà

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.