Hôm nay,  

Người con gái Kinh Cấm

25/10/202309:19:00(Xem: 2677)
Truyện

kinh cam

1.

Bến đò chợ Giữa nằm ở ngã ba sông, một bên là chợ huyện, bên kia xuôi về kinh Cấm.  Không ai còn nhớ tự bao giờ đã tên gọi khó nghe, đầy bí ẩn như vậy. Chỉ biết từ sau ngày  “giải phóng”, chính quyền địa phương đã đổi tên mới là phường An Lạc. Nhưng vài năm sau, dân chúng trong huyện trở lại gọi tên cũ là phường kinh Cấm. Rồi kể cả chính quyền, cũng chẳng ai màng đến tên gọi của cái xóm nghèo xơ xác đó... Hầu hết dân trong vùng kinh Cấm sống bằng nghề đan và vá lưới gia truyền. Lưới kinh Cấm nổi tiếng cả huyện đẹp, bền và rẻ. Vậy mà dân chúng trong huyện không ai muốn léo lánh và cấm đoán cả con cái không được bén mãn đến gần. Người lớn kể lại rằng kinh Cấm là xóm của người cùi, thành lập từ thời Pháp thuộc. Trải qua nhiều đời, đến nay người ta cũng rất thận trọng và ái ngại phải nhắc đến. Chính quyền địa phương đã tổ chức nhiều chiến dịch cải cách, giáo dục dân chúng trong vùng về ấn tượng chia rẻ đó. Nhưng những cố gắng, kêu gọi chừng như không thay đổi được gì trong ý thức sinh hoạt của người dân trong huyện. Cuộc sống cứ lặng lẽ trôi theo sự tái lập của nề nếp và thói quen cũ...
    Cuối dãy chợ huyện là hàng bán và nhận đan, vá lưới. Phần lớn là người kinh Cấm, trong đó không ai không biết đến hàng lưới của Mây. Không phải nghề đan vá lưới của Mây khác với người chung quanh, nhưng chỉ vì  Mây đẹp. Mây đẹp nổi tiếng cả vùng, cả huyện. Không những với nhan sắc rực rỡ, mặn mà Mây lại được cả nết hiền dịu, đảm đang. Mỗi ngày dập dìu trai tráng, đàn ông vãng lượn gian hàng lưới của nàng. Từ căn chòi lụp xụp, mẹ con nàng xây nhà gạch và thêm được vườn cây sau nhà. Cũng không phải vì vậy mà Mây lấy được lòng người. Con gái trong huyện đã đành, đằng này cả những đám đàn bà và dân bán chợ cũng ganh ghét, tị hiềm nàng ra mặt. Họ chuyền tai nhau về cái đẹp của Mây, là dấu hiệu thời kỳ cuối, trước khi chứng bệnh cùi bộc phát, tàn phá. Họ chờ đợi và thầm mong cho mọi rủi ro, tai hoạ giáng xuống đời nàng không thương tiếc. Nhưng ngày qua tháng lại, Mây càng đẹp lộng lẫy và buôn bán tấp nập hơn... Vậy mà ngoài hai mươi, Mây vẫn âm thầm nhìn thời gian lướt qua bóng sắc mình trong tấm gương soi cô độc. Họ, đám đàn ông con trai, chỉ lượn quanh ngắm nghía hay buông lời trêu ghẹo suông suông. Chưa ai trong đám họ dừng lại, cho nàng buổi hẹn hò hay một lần chạm tay đời con gái. Mây là bông hoa rực rỡ của những buổi chợ nhưng đêm đêm, bên dòng kinh Cấm nàng lặng lẽ khóc thầm cho thân phận nghiệt ngã, cho định mệnh trớ trêu. Thượng đế quá xa xăm còn người đời thì không ai màng đến tiếng khóc của nàng nức nở. Nỗi bất hạnh, cô đơn cứ cuộn tròn, thắt chặc nỗi đau trong nhan sắc lộng lẫy của Mây. Chỉ vì nàng là con gái kinh Cấm.
    – Thương con, ông bà ngoại cẩn thận gửi má cho vú nuôi từ nhỏ. Đến năm mười sáu tuổi, bà ngoại qua đời, ông ngoại mới đem má về nhà. Bấy giờ má là cô gái trẻ, bình thường và khoẻ mạnh. Không đầy hai năm sau, ông ngoại cũng qua đời, để lại má với căn nhà và nghề đan bán lưới kinh Cấm. Vừa tươi trẻ vừa giỏi giang, nhưng không ai dám đến gần để yêu thương hay dạm hỏi chuyện trăm năm. Mười mấy năm thoăn thoắt trôi qua, má vẫn ngồi đơn độc, âm thầm đan vá những chiếc lưới mặn khô bên bờ kinh Cấm. Cho đến một hôm, người đàn ông nghèo, lãng tử đến hát rong ở cuối hông chợ. Họ quen nhau và lấy nhau trong mảnh đời tương ngộ. Rồi đến khi em chào đời, ba má cũng theo nếp ông bà giao em cho vú nuôi. Má nói sau đó ba mất sớm, bà đành đem em về lúc mới đầy tám tuổi. Sống chung nhà nhưng má và em ăn không cùng mâm, không ngủ cùng giường, đồ dùng từ nhỏ đến lớn má đều sắm riêng. Mấy chục năm nay cả em và má không có dấu hiệu nào của căn bệnh hiểm nghèo đó... Nhưng gần đây, má đau nhức từng khớp xương và tai, mặt bắt đầu chai sượng. Em muốn anh biết và hiểu rõ điều nầy trước khi anh dừng lại hoặc bỏ đi. Em đã quen, đã sống với sự xa lánh của người đời như một cố nhân. Em sẽ không hờn oán hay trách cứ gì anh đâu!
    Bến Trống chạy dài theo bãi sông, nối liền với biển mặn. Dọc bờ là rừng mắm, loại cây thân vỏ khô, rễ tua tủa lên trên mặt đất bùn non. Giọng nói nhỏ, đều của Mây như khuất chìm trong gió biển. Tôi cúi xuống hôn những giọt nước mắt nàng mằn mặn, long lanh khoảng trời xanh nhạt cuối ngày. Mọi hoang mang, do dự chợt tan biến giữa niềm yêu thương tràn ngập chung quanh. Tôi hiểu mình đang giữ tình yêu trong tay, như một định mệnh thiết tha không lựa chọn. Nhìn thật sâu vào đôi mắt Mây, tôi vẫn không tìm thấy được bóng dáng của thử thách và nghiệt ngã. Cả tôi và nàng. Bên cạnh Mây chừng như tôi dễ tin yêu hơn với cuộc đời không rộng lượng. Trong tay tôi, nàng bỏ quên những nỗi sợ hãi và sự khinh miệt của con người.
    Thế hệ tôi lớn lên và trưởng thành bằng kinh nghiệm của khả năng sinh tồn và lòng nghi kị. Từ đó, mọi ước mơ dù bé nhỏ đến đâu cũng được che đậy, dấu kín dưới bộ mặt giả tạo của đời sống. Tôi về chợ Giữa sống chung với gia đình hai Chài đã hơn nửa năm. Gần như bạn bè, hàng xóm không ai còn nhớ và biết tên thật của hai Chài, ngoài đám công an địa phương và tôi... Sau sáu tháng học tập chính trị và lao động thực tế, tôi được “công lệnh” về dạy trường trung học phổ thông huyện. Khu nội trú của giáo viên là ba lớp học được ngăn chia bằng mấy tấm vách phên tre, vừa che khỏi đầu. Ba cô một phòng, ba thầy một lớp. Mọi người sống co cụm, dòm trước ngó sau... Tôi quen với hai Chài trong dịp tình cờ chiếc xe đạp thổ tả của tôi đứt “xênh” nằm đường. Lớn hơn tôi vài ba tuổi nhưng trông hai Chài già dạn, phong sương hơn nhiều. Phần do nắng gió vùng biển mặn, phần khác đầu trần mình trụi hằng ngày với chiếc ghe chài, anh nuôi cả gia đình một vợ bốn con. Tô Văn Trợt, tên khai sinh của hai Chài, là con trai lớn của gia đình đông con sinh sống bằng nghề chài lưới dọc theo vùng biển hòn. Trước đó, Trợt là lính hải quân. Sau ngày  “giải phóng”, anh trở về đây tiếp tục nghề đánh lưới truyền thống của cha ông mình. Cái tên hai Chài đẻ ra từ đó.
    Sau vài lần đến trường thăm tôi, hai Chài nì nằn cho bằng được để tôi dọn về ở trọ nhà anh. Cũng không xa trường, tôi vừa cải thiện đời sống vừa giúp anh dạy kèm mấy đứa nhỏ ở nhà. Mỗi ngày từ bốn năm giờ sáng, hai Chài đã xuống ghe đi lưới tận đến chiều chạng vạng mới về tới ngõ. Đời sống lúc càng khó, một con cá đến năm bảy người lưới, anh đi sớm về tối nhiều hơn. Vợ anh cũng đầu tắt mặt tối, nuôi con nhóm chợ, làm mắm làm khô, không phút nghỉ tay. Đến nổi anh phải nhờ tôi đi bỏ vá lưới rách hoặc đi lấy lưới đã mạn rồi. Tôi có dịp quen Mây và rơi vào tình nàng tha thiết...
    – Vĩnh ơi, hãy nhìn em thật kỹ. Em không muốn chúng ta bị cảm xúc lừa dối, để một đời luôn sợ hãi và mọi người lánh xa.
    – Ngoài tình yêu của em, cuộc đời đã không còn trong anh và nỗi sợ hải đó to lớn hơn cả cái chết.
    – Nhưng anh có cả cuộc đời trước mặt. Còn em, chỉ có bóng tối của ngày mai. Và cả định mệnh, định mệnh cũng không dành cho em được sự may rủi sau này!  Em đã quen rồi sự chấp nhận cho mọi nỗi bất hạnh, nỗi bất hạnh biết trước.... Còn anh, tình yêu em nhỏ bé biết chừng nào, với một đời anh vùi chôn trong sự xa lánh, ghê tởm của người chung quanh..!", Mây nói thật nhanh, nghẹn ngào trong tủi nhục. Tôi như một con thú vùng vẫy trong chính chiếc bẫy lòng mình, xước trầy bao vết thương tuyệt vọng.
    – Anh không cần thế giới to lớn, xa lạ đó. Anh chỉ cần em, cần tình yêu của em mà thôi. Tình yêu em là hơi thở trái tim anh, mất nó, đất trời nầy chỉ là một khoảng trống mênh mông, đầy bóng tối. Mây ơi, đừng để anh phải chết mòn trong tuyệt vọng và sống vô nghĩa giữa đám đông.
    Tôi nói như lời cầu kinh, vang vọng trong gió biển. Mây hiểu. Hơn bao giờ hết, tôi biết Mây hiểu tấm lòng tôi và những gì nàng đang đối diện. Mây ơi, xin đừng lừa dối với chính mình!  Vì trong mắt em, tôi đã nhìn thấy mọi yêu thương, mọi ước vọng cho đời này nghiệt ngã. Tôi đã đến và đã dừng lại. Đã nhìn thấy được trái tim nóng bỏng thiết tha, xuyên qua lớp vỏ nhan sắc tầm thường kia của nàng. Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng cho những cay nghiệt, đớn đau có thật. Tôi nâng khuôn mặt Mây và nhìn thật sâu vào mắt nàng. Thật sâu như để cố tìm kiếm sự ghê tởm hoặc kinh hãi mà người đời đã dành cho Mây. Tuyệt nhiên không. Tôi đã nhìn thấy tôi, trong tình yêu có thật của Mây. Và Mây đã nhìn thấy chính mình có thật, trong tình yêu của tôi. Tình yêu của tôi và Mây đứng ngoài thế giới đáng sợ này. Nó không hiện hữu trong tấm gương soi và cả ánh mắt người đời! Cuộc đời chỉ là huyễn hoặc nếu không có tình yêu chúng ta, phải không em?
    Thời gian ngưng đọng, nhẹ tênh. Trước mắt tôi hiện lên một mặt biển xanh thẳm màu hy vọng. Ở đó sẽ là tương lai hay chỉ là một định mệnh đợi chờ,tôi không màng biết tới. Vì ở đó có Mây, vì ở đó có tôi.
    – Mây, đây sẽ là tất cả số phận cuối cùng cho tình yêu chúng ta. Đêm mai là thời điểm đã định, anh cùng gia đình Hai Chài rời bến... Em hãy treo ngọn đèn bão trước hiên nhà vào lúc nửa đêm và đợi ở cuối dòng kinh Cấm. Thấy ngọn đèn bão, anh hai Chài sẽ ghé đón em ở cuối bờ kinh. Nếu không thấy ngọn đèn, là em khước từ cùng anh trong chuyến hành trình vô định nầy. Tất cả ở em, trái tim anh không còn thuộc về anh nữa. Nó sẽ thuộc về ngọn đèn bão đêm nay và bóng hình em ở cuối dòng kinh Cấm.
    Mặt trời đã khuất dần phía sau dãy rừng mắm.Tất cả lặng im, chỉ còn lại hơi thở dồn dập, nặng nề của tôi và Mây. Gió từ biển thổi vào bắt đầu trăn trở lạnh. Khuôn mặt Mây trắng lờ mờ, huyền hoặc từng đường nét liêu trai. Không kềm chế được xúc cảm tràn ngập, tôi cúi xuống hôn nhẹ lên đôi môi nàng hé mở.  Mây như lòng biển đêm bất chợt chuyển mình trước cơn giông. Môi nàng bám chặc môi tôi tê dại, không rời... Bàn tay tôi tự lúc nào, đang mơn trớn, dẫy dụa trên bờ ngực Mây vung tròn, căng cứng. Thảm lá chết, nực mùi bùn lợ như đan tấm thảm lụa bằng những sợi nhung của da thịt nồng ấm, cháy rực. Nghe đâu đây, trong khoảng đất trời bao la là muôn vàn tiếng kêu vang của tận cùng hạnh phúc và tuyệt vọng...
2.
Quá nửa khuya, đêm cuối năm tối đen không thấy rõ mặt người. Dọc bờ kinh Cấm, những dãy nhà lạnh câm, chìm sâu trong giấc mơ hải hùng truyền kiếp. Không có ngọn đèn bão trước hiên cửa nhà Mây.
3.
Giọng kể đều đặn của tôi chìm dần, mất hút trong căn phòng khách sạn lờ mờ sáng.  Bên cạnh, đứa con gái điếm người Phi    –líp    –pin giương đôi mắt đen tròn nhìn tôi.
    – Câu chuyện xảy ra bao lâu rồi ông?
    – Vào đêm không trăng, cuối năm 1981.
    – Ông có trở về và gặp lại cô ấy nữa không?
    – Không. Tôi không trở về kinh Cấm đã hơn bốn mươi năm nay.
    – Vậy câu chuyện tình của ông đến đó là hết.
    – Phải. Đến đó là hết.
    Đứa con gái thở dài nhè nhẹ. Tôi đưa mắt nhìn con số đồng hồ màu đỏ tươi để trên mặt bàn. Đã hơn hai giờ sáng. Tôi bật ngồi dậy, nói nhỏ:
    – Tôi phải đi bây giờ. Cô có thể về được rồi.
    – Nhưng... em chưa làm được gì cho ông! Vả lại, ông đã trả tiền “bao” em hết cả đêm nay kia mà.
    – Tôi biết. Cô không sợ tôi sẽ mang chứng bệnh cùi và lây qua cho cô sao?
    – Ông nghĩ rằng em tin câu chuyện của ông là có thật?
    Đứa con gái nắm tay tôi giữ lại. Dưới ánh đèn mờ đục, khuôn mặt nó thật giống như Mây với mái tóc buông xõa nửa vai. Tôi cúi xuống nâng mặt đứa con gái người Phi, thấy cả hình ảnh xinh đẹp của Mây bốn mươi năm về trước... Tôi hôn vội, phớt nhanh trên đôi môi nhỏ nhắn, hé mở dễ thương của cô gái.
    – Nếu ông không muốn làm tình, ông hãy nằm xuống, nhắm mắt lại và mơ về cô ấy. Em sẽ làm cho ông thỏa mãn, tận cùng khoái cảm!
    – Không. Tôi không muốn gì hết... Xin chào tạm biệt và chúc cô nhiều may mắn.
    – Cám ơn ông và chào tạm biệt.
    Dãy phố đêm đã chìm sâu, vắng lạnh. Như bao nhiêu lần khác, tôi nói dối với đứa con gái điếm người Phi. Nhiều năm trước, tôi đã trở về kinh Cấm để mong tìm lại Mây. Tất cả  không còn nữa. Không còn ai nhắc đến người con gái kinh Cấm. Không ai biết Mây ở đâu và sống hay chết... Nhưng phần cuối câu chuyện do vài người hàng xóm kể lại, sau ngày tôi ra đi và mẹ Mây mất. Phần cuối chuyện nầy, tôi không kể ai nghe và sẽ giữ riêng cho mình, mãi mãi.
4.
 
Đêm đó biển động, gió thổi về kinh Cấm lồng lộng. Người đàn bà nằm yên lặng, lắng nghe từng tiếng thổn thức của con gái mình. Bây giờ không phải một, mà hai. Mây mang thai hơn năm tháng nay, bụng đã đội cao. Chẳng bao lâu, mầm sống trong bụng Mây sẽ trở thành một kiếp người xương thịt. Sẽ là nguồn sống, tình yêu và niềm hạnh phúc vô biên của Mây, như chính của bà ngày xưa... Bà nhớ rõ như mới hôm qua, khi gặp người đàn ông đó cất tiếng hát đầu tiên ở cuối hông chợ. Họ đã thuộc về nhau, bất chấp thế giới chung quanh, bất chấp mọi rủi may cuộc đời. Họ đã tìm thấy ý nghĩa thật sự của tình yêu, của hạnh phúc đời nầy. Thời gian với họ, chỉ là sự tồn tại tạm bợ của xác thân. Với tình yêu, họ đã tìm thấy được sự vĩnh cửu. Người đàn ông đó đang đợi bà bên kia phần thế giới mênh mông, vô xác vô thân, vô hình vô tướng...  Nhưng bây giờ, trước mặt bà không chỉ là đứa con gái thân yêu duy nhất của bà, mà chính là hai cuộc đời của mẹ con Mây. Bà hiểu thật rõ, Mây là tất cả  đời bà. Nhưng bà cũng thấm thía hơn, khi bà mất đi, Mây sẽ hiểu được sự thật về chính thân phận của mình. Bà đã trở thành con người ích kỷ, độc ác vì tình yêu bà dành cho Mây. Nỗi đau đớn dày vò lòng bà hơn cả cái chết. Những cánh cửa địa ngục mở rộng chờ đợi, bà không chút sợ hãi. Nhưng, giữ kín sự thật đời Mây là nỗi ám ảnh nặng nề và ghê gớm nhất đang trừng phạt tâm hồn bà. Làm sao bà quên được, ngày vợ chồng bà tìm thấy đứa trẻ sơ sinh cuốn tròn trong chiếc khăn bàn, nằm khóc khan góc chợ vắng tanh. Như một thiên thần đem lại biết bao tình yêu, hạnh phúc cho suốt cuộc đời vợ chồng bà. Đứa trẻ thơ đó là Mây... Bà nghẹn ngào nuốt từng dòng nước mắt khô lặng lẽ chảy ngược vào lòng. Thời gian đã điểm, cái chết tầm tay. Bà ra dấu con gái lại gần, thật gần. Mẹ con chỉ còn cách nhau lớp vải mùng mỏng manh. Bà trút hết sức tàn, mở mắt nhìn thật sâu khuôn mặt con với niềm yêu thương trời biển:
    – Mây, con hãy đem đứa con trong bụng rời khỏi nơi nầy... Con và nó không thuộc về kinh Cấm. Vì... vì, con không phải là con ruột của má.
    Sau ngày chôn cất mẹ, người kinh Cấm không còn thấy bóng dáng của Mây đâu nữa.  Có người đồn rằng Mây lên sinh sống ở vùng cao nguyên và sinh được đứa con gái cũng xinh đẹp như mẹ. Lại có tin đồn khác, dân đánh cá địa phương vớt được xác cô gái có thai, trôi dạt tận vùng biển hòn. Nhưng dù thế nào, mọi người trong huyện đều xót xa, thương tiếc cho người con gái đẹp vùng kinh Cấm.
     Đến nay hư thực ra sao, không ai biết rõ và cũng không ai còn nhắc đến nữa. Có điều lạ là, vào những đêm không trăng mỗi cuối năm, mọi người ở dọc bờ kinh Cấm đều treo ngọn đèn bão trước hiên nhà.

 

Nguyễn Vĩnh Long

                                   

Ý kiến bạn đọc
07/07/202400:25:59
Khách
Một câu chuyện thật cảm động! Cảm ơn tác giả NNH
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.