Hôm nay,  

Chúc Mừng tạp chí “Quán Văn” đạt tới số 100

18/12/202310:19:00(Xem: 2582)
Tản mạn

qvan
 
    Thấm thoát Quán Văn đã ra được trăm số báo.
     Còn niềm vui nào hơn!
     Nhớ lại hồi cuối năm 2011 khi về Việt Nam thăm gia đình, anh Trần Hoài Thư nhắn tôi đến thăm anh Nguyên Minh và mua ủng hộ Quán Văn khi ấy tên tuổi hãy còn mới toanh vì vừa mới chào đời. Anh Nguyên Minh vui vẻ giải thích cho tôi hiểu vì sao anh đánh số từng kỳ với ba con số (001) chứ không phải chỉ vẻn vẹn một con số duy nhất như các tạp chí trước đây: “Anh mong Quán Văn sẽ sống đến 3 con số, nghĩa là ít nhất phải ra đến số 100, chứ không vắn số như Ý Thức hồi xưa.” 
     Nói đến tờ “Ý Thức” thì tôi không xa lạ. Vì ngay từ năm 1972, khi làm bạn với Thanh Yên, tôi đã thường nghe Yên nhắc đến: “Anh Ngạn (nhà thơ Hồ Thanh Ngạn, anh của Yên) cùng các bạn làm báo Ý Thức. Nhà Yên là nơi mấy anh đến họp, thảo luận về tờ báo...” Mãi đến sau này khi quen với anh Nguyên Minh tôi mới được biết chính tại căn nhà này, sau khi cùng chị T. lấy số báo Ý Thức đầu tiên từ nhà in ra về, trời mưa, xe đang đi ngon trớn bỗng bị chết máy, anh Nguyên Minh đã bỏ chị T. lại dọc đường cùng với chiếc xe đình công bất tử đó. Ôm chặt gói báo trong tay, anh gọi tắc-xi đến nhà Thanh Yên dưới chân cầu Phan Thanh Giản nơi các anh chị khác đang chờ... Sau đó nhà viết kịch Lữ Kiều (Bác sĩ Thân Trọng Minh) được nhờ đi đón. Hỏi anh Nguyên Minh bất cứ điều gì về tờ báo, từ font chữ, màu bìa, v.v... anh đều nói vanh vách, nhưng không thể nhớ nổi nàng tóc uốn hay tóc thề hoặc màu áo người yêu mặc hôm ấy để anh “Minh lớn” dễ nhận dạng tìm người!!! Trên đời này, có lẽ anh là người duy nhất đặc biệt như vậy. Bởi thế nên chị T. mới buồn, mới chia tay anh đi lấy chồng. Để anh mãi cắn rứt, thương tưởng suốt đời và khóc mùi mỗi khi nghe bài hát “Anh còn nợ em”. Như lời Bác sĩ chuyên khoa tim mạch Thân Trọng Minh có lần “chẩn bệnh” cho anh: “Quả tim có bốn ngăn. Ngăn thứ nhất ông dành cho cha mẹ. Ngăn thứ hai ông dành cho vợ con. Ngăn thứ ba cho tình yêu mà T. đã chiếm hết chỗ. Ngăn thứ tư là của bạn bè”...
     Hành trình của tạp chí Ý Thức đã được anh Nguyên Minh ghi lại trong bài viết “Một Thời Ý Thức”. Tiền thân của nó là tờ Gió Mai có từ 1957 khi các anh Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Hoài Linh, Thùy Linh (Ngy Hữu Trần Hữu Ngũ), Hồ Thủy Giũ, Nguyên Thạnh (Nguyễn Mậu Hưng), Thiên Nhất Phương (Châu Văn Thuận), Nguyên Minh, Hồ Thanh Ngạn… còn đang học Quốc Học. “Hàng tháng ra một số báo, bài vở tác giả tự viết tay, tập trung lại đóng thành một tập duy nhất, rồi chuyền tay nhau mà đọc. Thỉnh thoảng ra một vài tập thơ của từng tác giả như U Hoài thơ của Lữ Kiều, Thác Loạn của Lữ Quỳnh, Những Người Cùng Đi tuyển tập thơ của nhiều tác giả. Tuyển tập thơ văn Gió Mai, in ronéo.” [1] Xong bậc trung học, các anh tản mát theo đuổi hướng lựa chọn cho tương lai sự nghiệp riêng. “Từ đó Gió Mai không ra báo thường xuyên. Tại Quy Nhơn, Thùy Linh, Nguyên Minh, Hồ Thủy Giũ, cùng bài vở của anh em trong nhóm từ xa gởi về làm một số Gió Mai tha hương...” [1]
     “Năm 1967, tại Phan Rang, khi Ngy Hữu và Nguyên Minh về dạy học tại đó, tập họp bài vở anh em trong nhóm ở xa làm một số Xuân Gió Mai, in ronéo, khổ 21 x 30. Đến năm 1969, Gió Mai mở rộng và đổi tên là Ý Thức, hai tháng ra một số báo, in ronéo. Lúc này, nhóm chủ trương có thêm Trần Hữu Lục, Lê Ký Thương, Võ Tấn Khanh, Đỗ Nghê (Đỗ Hồng Ngọc)... Báo ra được 6 số thì dọn vào Sài Gòn, ra chính thức Bán nguyệt san văn học nghệ thuật, in typô rồi đến offset, phát hành rộng rãi. Tòa soạn đặt tại 666 Phan Thanh Giản, Sài Gòn. Nhóm chủ trương có thêm Ngụy Ngữ, Trần Hoài Thư... Báo ra 24 số thì tạm đình bản. Đầu năm 1974, Ý Thức ra bộ mới dưới hình thức Bản thảo do Lữ Kiều làm chủ biên, lúc bấy giờ nhóm chủ trương có thêm Hoàng Khởi Phong, Lê Văn Ngăn. Đến năm 1975, Ý Thức Bản thảo số 2 chưa kịp phát hành.” [1]
     Như thế, nếu không kể tiền thân Gió Mai, và số báo chưa kịp phát hành, Ý Thức chỉ góp mặt vỏn vẹn 25 số...
     Anh Nguyên Minh tâm sự:
     Thời trẻ tôi làm Ý Thức.
     Về già tôi làm Quán Văn.
     Bây giờ. Bốn phương. Tám hướng. Bạn cũ. Bạn mới. Giới già. Giới trẻ. Đã thành danh. Chưa thành danh.
    Cùng nhau ngồi chung một chiếu. Văn chương. Nghệ thuật. Chữ nghĩa trong sáng. Nhân bản. Hồn nhiên. [1]
     Thật đúng như vậy. Từ năm 2011 đến nay 2023 là 12 năm, tròn một giáp, anh đã ra được 100 số báo. Như vậy tính trung bình hơn một tháng thì có một số Quán Văn chào đời, với tiêu chí Sáng tác – Tư liệu – Nghiên cứu văn học, góp mặt người viết từ khắp mọi nơi trên thế giới. Mặt khác, Quán Văn không chỉ giới thiệu những tác giả sinh sống trong nước như Trương Thìn, Lữ Kiều, Đỗ Hồng Ngọc, Chu Trầm Nguyên Minh, Khuất Đẩu, Nguyễn Lệ Uyên, Lê Ký Thương, Nguyễn Dương Quang, Đoàn Văn Khánh... mà còn với người đang ở “biển ngoài”: Lữ Quỳnh, Phạm Cao Hoàng, Kiệt Tấn, Nguyễn Minh Nữu, Trương Vũ, Nguyễn Thị Khánh Minh, Trần Hoài Thư, Nguyễn Thụy Đan, Nguyễn Thành Châu...
     Ngoài ra, Quán Văn còn tổ chức những chuyến đi chơi xa từ Nam chí Bắc, thậm chí sang cả Pháp, Hoa Kỳ để các bạn văn có dịp cùng gặp gỡ, sinh hoạt chung với nhau và có thêm kiến thức về các vùng miền trên đất nước lẫn hải ngoại cho sáng tác... Quán Văn đã như một mái nhà ấm áp, thân tình quy tụ các bạn yêu văn chương nghệ thuật cùng đến với nhau, không phân biệt chiếu trên, chiếu dưới, cũ hay mới, lớn hay nhỏ, v.v... 100 số báo, với biết bao kỷ niệm. Bên anh Nguyên Minh còn có những cộng sự rất đắc lực, năng nổ phụ giúp, như nhà thơ Đoàn Văn Khánh, họa sĩ Nguyễn Sông Ba, nhà phê bình Hoàng Kim Oanh...
     Bên cạnh làm báo Quán Văn, anh Nguyên Minh vẫn tiếp tục theo đuổi việc sáng tác, trong khi đa phần các anh từ thời Gió Mai, Ý Thức vì lý do này khác đã gác bút. Đây là một điểm son của anh. Nên vừa qua tạp chí văn học nghệ thuật Ngôn Ngữ số 26 phát hành ngày 1-7-2023 tại Hoa Kỳ dành giới thiệu nhà văn Nguyên Minh như một vinh danh cho người suốt đời chung thủy với văn chương. Tôi giúp sửa morasse số báo này nên đã hơn một lần được đọc lại một số sáng tác của anh. Những truyện ngắn của anh, bằng lối viết dung dị, trong sáng, rất lôi cuốn khiến độc giả khó bỏ sách xuống khi đọc chưa xong, thoạt xem qua như những câu chuyện kể đời thường nhưng thật sự tự nó đã hàm chứa những ý nghĩa rất sâu sắc, nhân bản mà anh khéo léo lồng trong đó. Tôi đã chảy nước mắt thương ông Tàu già Quán Siu Siu, bao nhiêu năm gầy dựng cơ nghiệp từ hai bàn tay trắng bằng sự siêng năng cần mẫn bỗng chốc tan tành như mây khói, vợ con chết mất xác trên đại dương (do gia đình ông không chấp nhận hồi hương về Trung Hoa đại lục mà vượt biên hướng về Đài Loan, chiếc tàu nhỏ đâm vào đá ngầm tan nát). Không hiểu sao ông lại trở về được nơi này. Nhìn ngôi nhà sang trọng cũ nay đã thay ngôi đổi chủ sau chiến dịch giải tỏa người Hoa nằm trong diện “tư sản mại bản”, những kỷ niệm cũ tràn về. “Ông đã thành một người ngớ ngẩn. Hằng ngày ông lẩn quẩn quanh khu chợ An Đông, và trở thành kẻ ăn mày trên chính mảnh đất đã làm ông thành ‘tư sản mại bản’ ” [2]. Cuối cùng ông Siu Siu cũng “chết tức tưởi trong một đêm mưa dầm. Xác của ông từ con kênh bến Chương Dương trôi giạt vào bờ. Trên đầu có vết bầm rướm máu...” [2]
     “Có một thời như thế” là câu chuyện kể về thời kỳ đầu sau khi dứt chiến tranh, người thím đã lấy những tảng đá xanh bia mộ của những tử sĩ VNCH úp ngược lót làm chuồng nuôi heo trong thành phố với thực phẩm cho heo ăn là cám trộn với những xác thai nhi bị người mẹ nạo bỏ bằm nhỏ. Làm rượu bổ ngâm bằng nhau người. Và làm thuốc tây giả bằng cách trộn vào đó nửa bột mì... Nói chung vì cuộc sống, thím chẳng từ nan một việc gì miễn kiếm được nhiều tiền. Nhưng “ác giả ác báo”,  “những con heo lăn đùng giãy chết trước ngày xuất chuồng, hôi thối như mùi xác người chết đã thối rữa. Bán không ai dám mua, cho không ai dám nhận.” [3]  Những chủ nhân của chúng cũng gặp tai họa thảm khốc. Và người thím này về sau đã bị hành xác đớn đau với bệnh ung thư tử cung, đã khóc trước khi trút hơi thở cuối cùng, tiếng khóc như tiếng mèo gào.
     Đặc biệt truyện “Ám ảnh một lời nguyện” nói về một đứa bé trai con một sĩ quan Võ Bị đã mất trong trại cải tạo năm 1976, được mẹ cho vượt biên hầu tìm một tương lai sáng sủa hơn. Chẳng may khi lênh đênh trên biển cả, tàu bị mất phương hướng, hết cả nhiên liệu, nước ngọt, thực phẩm, sức lực thuyền nhân cũng cạn kiệt chỉ còn chờ cái chết. Đúng lúc đó thì hải tặc xuất hiện. Cậu bé nhớ lời Mẹ dặn nên nắm chặt tượng Phật Bà Quan Âm trong tay và nguyện cầu. “Chỉ trong tích tắc. Không hiểu sao Huy hét lên một tiếng kêu ghê rợn. Bọn hải tặc lao nhao nhảy qua tàu chuồn mất. Chính khoảnh khắc đó người đàn bà từ đâu đến nhập vào hồn Huy. Chính bà ấy đưa tiếng hét thất thanh của Huy bay xa làm cho một chiếc tàu lớn đang di chuyển ngoài khơi tìm đến cứu nạn.” [4]  Người đàn bà đó được suy đoán là Mẹ Âu Cơ đã ôm chặt và vỗ về Huy. “Trước khi bà biến mất, bên tai Huy vẫn văng vẳng tiếng nói trách móc đến một ai đó: Sao ông để con cháu mình bị đày đọa thảm khốc như thế này? Giận chồng nhưng ta phải cứu con cháu mình.” [4]  Đã 40 năm trôi qua, đứa bé trai bây giờ là người đàn ông 50 tuổi, một bác sĩ về tim mạch nổi tiếng trong một đất nước giàu mạnh nhất thế giới, bỗng dưng bán hết gia tài, nhà cửa để trở về quê cha đất tổ dù người Mẹ không muốn. Thì ra, ngày xưa chàng đã có lời nguyện với bà Âu Cơ (hay cũng là Mẹ Việt Nam?). Tác giả kết luận:
    “Chính sự trở về quê cha đất tổ của Huy đã làm tôi thay đổi lối nhìn về một truyền thuyết mà từ thuở ấu thơ đến tuổi xế chiều vẫn làm tôi ray rứt. Cái chia tay mỗi người mỗi ngả, dắt thêm đàn con 50 người. Lạc Long Quân xuống biển. Âu Cơ lên rừng. Vợ chồng chia lìa. Anh em 100 người chia đôi, quên bẵng mình cùng một bọc trăm trứng sinh ra.
    ... Bấy giờ tôi giật mình mới khám phá ra hình như người viết sử ngày xưa đã bỏ mất đoạn kết về truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ. Chỉ sau một thời gian cả hai người đều dắt đàn con về trên thảo nguyên. Trăm đứa con ôm nhau sau bao năm xa cách. Chiến tranh không bao giờ trở lại.” [4]
     Truyện này làm tôi liên tưởng đến bài thơ Tâm Sự Lạc Long Quân của Đỗ Nghê sáng tác từ năm 1965:

Những vết ô nhục trong lịch sử chúng ta
Các con đều đã rõ
(…) Đã cùng sinh ra trong một bọc
Thì hãy nghe ta
Đốt hết sách vở, xé hết cờ xí đi
Rồi đứng ôm nhau mà khóc
Nước mắt sẽ làm tươi lại cỏ cây
Nước mắt sẽ làm phì nhiêu mảnh đất...
 
Tiếng nói của yêu thương, nhân bản trong văn Nguyên Minh xuyên suốt với mộng văn chương mà anh đeo đuổi. Xin được chúc mừng anh. Cùng Quán Văn kỷ niệm 100 số báo ra mắt, kính chúc anh Nguyên Minh và các bạn văn luôn vui, khỏe, chân cứng đá mềm để tiếp tục vượt qua được chặng đường khó khăn trước mặt.

-- Trần Thị Nguyệt Mai

14-7-2023

Tham khảo:


[1] Nguyên Minh – Một Thời Ý Thức (tạp chí Ngôn Ngữ số 26, trang 29 – 35)

[2] Nguyên Minh – Quán Siu Siu (tạp chí Ngôn Ngữ số 26, trang 11 – 16)

[3] Nguyên Minh – Có một thời như thế (tạp chí Ngôn Ngữ số 26, trang 51 – 62)

[4] Nguyên Minh – Ám ảnh một lời nguyện (tạp chí Ngôn Ngữ số 26, trang 36 – 42)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.