Hôm nay,  

Dự tiệc cuối năm

27/12/202312:34:00(Xem: 2562)
Truyện

IMG_8896

Vừa đi làm về đến nhà, chồng tôi báo tin:
    – Chị Nở mới ghé tiệm mua thuốc, rồi mời tụi mình tuần tới đến dự tiệc kỷ niệm 40 năm ngày cưới của vợ chồng chị ấy.
    Tôi giãy nảy:
    – Mình từ chối được không anh?
    – Sao vậy em, mình có bận gì đâu ?
    – Anh mau quên thật, còn em thì nhớ mãi lần dự tiệc mấy năm trước…
    – Tưởng chuyện gì! Anh nhớ rồi, thì lần này em phải biết …rút kinh nghiệm chứ! Mình không đi thì hơi kỳ, dù sao đây cũng là tiệc mừng hạnh phúc nhà người ta, vả lại đúng dịp cuối năm tụ tập người quen, cũng vui!
    Chị Nở là người chị lớn tuổi khá thân thiết với gia đình tôi. Chị là trưởng Hội Con Gái Đức Mẹ trong Nhà Thờ, là thành viên Ca Đoàn chúng tôi, còn tôi là Thư Ký của Hội Đồng Mục Vụ, nên quen biết nhau qua công việc giáo xứ và tình Kito hữu, tình ca viên ca đoàn. Ngoài ra, chị ấy còn là khách hàng quen thuộc của tiệm thuốc của chồng tôi, nên năm đó khi chị xây nhà mới (lúc dịch Covid chưa xuất hiện), chị có mời vợ chồng tôi đến chung vui.
    Tôi hớn hở đi shopping từ buổi sáng để chọn quà tân gia cho nhà chị Nở, cũng là dịp tháng Muời Hai nên tôi kết hợp đi tìm mua quà trong “Christmas gift list” của gia đình.  Mỗi lần đi mua quà cho ai đó, kể cả quà Giáng Sinh, tôi thường bị tẩu hoả nhập ma, có khi đi cả buổi chẳng mua được gì. Chọn quà tân gia càng khó hơn, tôi đi hết tiệm này qua tiệm khác, suy nghĩ về “gia chủ” để đoán xem họ thích quà loại nào, cuối cùng tôi cũng phải chọn một món khi trời đã quá trưa.
    Chồng tôi phụ xách đồ vào nhà:
    – Sao em về trễ vậy, sắp đến giờ đi dự tiệc rồi, mà em đã ăn gì chưa ?
    Tôi vui vẻ:
    – Em có ăn chút French Fries và ly cà phê tại khu shopping, anh mang quà ra gói giùm em, rồi chờ em lên tắm rửa thay quần áo. Em cố ý để bụng đói đi dự tiệc đấy, chị Nở nổi tiếng nấu ăn ngon mà!
    Mọi việc xong xuôi, tôi ngồi vào bàn trang điểm, nhẩn nha chọn loại nước hoa yêu thích. Đi dự tiệc vào những dịp cuối năm như thế này làm tôi phấn chấn, vì được mặc quần áo đẹp, gặp gỡ người quen và thưởng thức các món ăn.
    – Xong chưa em ơi?!
    Tôi nhìn đồng hồ:
    – Chỉ mới hơn bốn rưỡi mà anh, họ mời 5 giờ, trời mùa đông mau tối!
    – Anh biết chứ! Nhưng em đã từng ngán ngẩm cảnh đi tiệc cưới phải chờ một vài tiếng mới được ăn, và em cũng lên án “không ăn đậu không phải Mễ, không đi trễ không phải Việt Nam” đấy thôi!
    – Đúng thế! Em là chúa ghét chuyện đi …quá trễ. Nếu hôm nay mình đến đúng “y boong” 5 giờ như người Canada thì sợ mang tiếng …ham ăn. Thôi tụi mình sẽ chọn giờ …lửng lơ, đến đó khoảng 5 giờ 15, không sớm mà cũng không muộn, coi như phe đến sớm và phe đến trễ đều không có cớ nói xấu mình.
    Đến nơi đúng 5 giờ 15, chúng tôi bước vào căn phòng ăn rộng rãi, chỉ thấy Cha xứ, mấy Cha khách và một hai cặp vợ chồng khác đang nói chuyện (hoá ra tôi vẫn đến sớm!). Mùi thức ăn từ nhà bếp toả ra thơm nồng, kích thích cơn đói của tôi. Chồng tôi được một vị khách mời ngồi vào bàn với chia bia, tôi cũng tính kéo ghế ngồi xuống thì chị Nở réo tôi từ trong bếp:
    – Loan ơi, vào đây nếm thử món bánh tôm Tây Hồ của chị nà!!
    Tôi mừng rỡ chạy vào bếp, bụng đang cồn cào mà có bánh tôm chiên ngon tuyệt vời thì còn gì bằng. Món này của chị Nở nổi tiếng khắp giáo xứ, tôm loại ngon, để nguyên vỏ, còn đủ đầu đuôi sau khi cắt sạch sẽ và nêm nếm, nhúng vào thau bột có sẵn những miếng khoai lang cắt sợi to, rồi chiên trên chảo dầu nóng, ăn với rau sống và nước mắm chua ngọt. Tôi đón lấy miếng bánh mới chiên còn nóng hổi, ăn thử thôi, vì chưa có nước mắm và rau. Lúc bấy giờ tôi mới có dịp nhìn quanh bếp, đồ đạc các thứ còn bày bừa ngổn ngang. Một chị đứng nơi góc Pantry thấy tôi rảnh, liền ngoắc tôi:
    – Em qua đây giúp chị lặt rau nhe, để chị ra xem nồi súp Cua!
    Tôi xắn tay áo lên, bắt đầu lặt rau. Lúc này có người lai rai đến, cười nói chào hỏi bắt tay nhau rôm rả ngoài kia. Tôi để rổ rau đã lặt xong, tính chạy qua phòng ăn để góp vui với đám đông thì chị Nở lại bảo:
    – Ôi, em tiện tay rửa rau giùm chị luôn thể, nhé!
    Căn phòng bếp rất rộng rãi, ngoài hai cái sinks kế bên dàn bếp gas, còn một cái sink lớn ngay giữa kitchen island  Tôi đứng rửa rau, có ai đó mang vào bếp mấy túi trái cây, nào thơm, nào kiwi, thanh long, hồng giòn, rồi bày ra giữa nhà bếp, kẻ cắt người gọt nhộn nhịp.
    Tôi nhìn ra ngoài kia, mong chồng tôi vào đây ...cứu tôi, nhưng hình như anh ấy chẳng nhớ có tôi ở đây thì phải. Anh còn bận rộn cụng ly với người này người kia, ăn mấy món snacks khai vị. Tôi đang tìm cách âm thầm chuồn ra ngoài thì cái chị súp Cua hồi nãy nhìn tôi mỉm cười:
    – Em ơi, cái chảo bánh tôm đang rảnh, em ra chiên hộ chị hai bịch bánh phồng tôm này để chút ăn gỏi xoài …
    Trời ơi! Chị Nở đang chạy ra ngoài kia chào khách mới đến, toàn là những vị khách “có máu mặt” trong giáo xứ nên căn nhà bếp để cho chúng tôi tự sai bảo nhau, mà tôi là một trong những nạn nhân.
    Giờ thì tôi không còn cười được nữa. Tôi diện quần áo đẹp, làm tóc đẹp, sơn móng tay móng chân để đi dự tiệc, để được thảnh thơi ăn uống chuyện trò, chớ đầu phải để làm phụ bếp. Tôi vẫn quan niệm rằng, khi mình mời khách đến nhà, thì mọi việc nấu nướng phải chu toàn trước giờ khách đến, ngoại trừ những món cần các công đoạn cuối cùng cho nóng sốt. Tôi không bao giờ để khách đến với căn bếp bừa bộn vì sự thiếu chuẩn bị của gia chủ. Nếu cần, tôi sẽ nhờ một vài người rất thân quen đến từ sớm để phụ, kể cả các món tráng miệng, trái cây tôi cũng cắt sẵn sàng trong tủ lạnh, tới giờ khách đến là cả chủ lẫn khách đều thoải mái, nên tôi khó chấp nhận việc đi dự tiệc mà bất ngờ trở thành phụ bếp, ngoại trừ trường hợp khẩn cấp trong các buổi ma chay, hoặc những sự cố bất ngờ khác.
    Tôi cứ như chong chóng trong nhà bếp, từ những việc có tên đến những việc không tên, thì đến giờ tiệc bắt đầu. Lạy Chúa ôi, bàn ăn ngoài kia đã đầy người, lũ trẻ con và đám thanh niên được vào phòng ăn phụ, còn một số phụ nữ phụ bếp chúng tôi cũng gần chục người phải đứng ngay trong bếp, giỏng tai nghe gia chủ tuyên bố lý do, rồi Cha xứ làm phép thức ăn, xong là chúng tôi xếp hàng lần lượt bưng bê các món ra cả hai phòng ăn phục vụ mọi người. Chị Nở tíu tít chỉ đạo nhóm phụ bếp lo cho khách khứa đầy đủ, rồi quay vào rạng rỡ nói với chúng tôi:
    – Chị em chúng mình chịu khó ăn trong bếp nhe! Số sướng mới được ăn trong đây, vừa ăn vừa đứng nó mới mau tiêu, ăn được nhiều, phải không nà!?
Rồi chị cười thích thú, tôi bấm bụng cười theo (méo cả miệng) đáp lễ. Thời đại nào rồi mà còn cái hủ tục ưu tiên cho các đấng đàn ông ăn trên ngồi trước và phụ nữ chúng tôi phải ăn dưới bếp? Mà nào có được yên thân, ăn mỗi món một ít, có món thì nguyên vẹn, có món thì chỉ có đầu thừa đuôi thẹo, đã vậy còn bị réo gọi liên tục, mang thêm chén đũa, lấy tí nước mắm, múc thêm món này món kia, ôi thôi đủ cả! Tôi thấy ghen tị với các chị đến trễ ngoài kia, được ngồi bên cạnh chồng, vừa ăn uống vừa nói chuyện vô cùng vô tư lự, rộn ràng, còn tôi, cũng là khách được mời, nhưng còn kiêm luôn cả chân phụ bếp, dọn rác và bồi bàn.
    Tiệc cũng sắp tàn, vài người kéo ra phòng kế bên hát karaoke, nhóm đàn ông tản ra ngoài hút thuốc, tôi nhìn mấy cái sinks trong bếp đầy các chén dĩa dơ mà ngán ngẩm. Tôi quyết định đứng lên, chuẩn bị khuôn mặt lạnh lùng, nhủ thầm sẽ không mủi lòng nhẹ dạ với bất cứ người nào mời tôi ...ở lại nhà bếp. May quá, chị Nở từ ngoài nhanh nhẹn chạy vào, xua tay:
    – Ấy ấy! Em ơi, đừng bận tâm chuyện rửa chén, chút chị cho vào máy một loáng là xong thôi mà!
    Ủa, tôi có định rửa chén đâu chớ! (Xưa rồi …Nở!). Cuối cùng, chồng tôi cũng kịp xuất hiện để … giải cứu tôi, chào chủ nhà và xin phép ra về vì mai còn đi làm sớm, dù chị Nở một mực níu kéo ở lại hát karaoke với lý do “hổng có em thì karaoke hổng dzui” (chắc chị ấy mỉa mai tôi, chớ ai cũng biết tôi thuộc nhóm người “hát hay không bằng …khoái hát”), nhưng tôi vừa bực bội vừa mệt mỏi, thì còn tâm trí nào để hát xướng ?! Có cho tôi hát mười bài tôi cũng chẳng ham.
    Chui vào xe, thấy tôi im lặng bơ phờ, chồng nhìn tôi …rụt rè:
    – Em đói không, mình ghé tiệm nào đó ăn thêm nhe?!
    – Anh cũng đói à ?
    – Không, anh quá no vì thức ăn mang lên bàn liên tục, anh nghĩ em ở dưới bếp bận rộn chắc không ăn đủ no…
    Tôi hờn mát:
    – Anh no rồi thì đi ăn nữa làm gì!
    – Thì cho em ăn!
    – Thú thật với anh, em đói không ra đói, no chẳng ra no, mà chỉ thấy mệt. Anh cho em về nhà tắm rửa, cái áo đầm hàng hiệu của em bây giờ đầy mùi hành tỏi xào nấu. Nếu tối đói bụng em nấu mì, vừa ăn vừa xem phim vẫn ngon tuyệt vời.
 
*
 
Nhớ lại cái buổi tiệc đó, tôi vẫn… giận hờn chị Nở, tôi bảo chồng:
    – Vậy lần này nhất định vợ chồng mình sẽ đến trễ hẳn một tiếng.
    – Ai lại làm thế? Như vậy không lịch sự tí nào cả!
    – Mình sẽ nói trước là tiệm đang mùa chích Flu và booster shot cho Covid nên không đến đúng giờ được, ai dám trách mình?!
    Vài ngày sau chồng tôi về nhà, lại báo …tin vui:
    – Em ơi, khỏi cần lo chuyện đi trễ nữa nhé.
    – Chị Nở cancel tiệc hở anh?
    – Chị ấy bảo mấy năm nay vì ảnh hưởng dịch chưa được ăn nhà hàng, nên chị quyết định tiệc sẽ làm ở nhà hàng, khỏi phải lỉnh kỉnh bếp núc. Vậy em tha hồ mặc áo quần đẹp rồi đến dự tiệc. À mà nè, chị Nở còn đặt nhà hàng lo chuyện âm thanh và dàn karaoke nữa đó, em chuẩn bị dợt lại mấy bài nhạc tủ, nhạc sến của em đi là vừa.
    Đúng là tin vui tới tấp, nên tôi chẳng thèm cãi lại lời chồng, rằng tôi cũng yêu thích mê mẩn “nhạc sang” của Phạm Duy, Ngô Thuỵ Miên, Trần Công Phụng, Cung Tiến… nhưng vì giọng “oanh vàng” của tôi chỉ hợp với nhạc bolero thôi chứ bộ! Dù rằng, đôi khi tôi cũng thấy mình cũng rất… sến, chả oan gì đâu!
    Mà thôi, trước mắt là tôi sẽ đi shopping cho bộ áo đầm mới, chuyện hát hò tính sau!
 

– Kim Loan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.