Hôm nay,  

Panatnikhom, nhớ Bidong

20/03/202409:11:00(Xem: 3501)
Truyện

IMG_9393

 

Buổi tối hôm ấy, Quân đến nhà Phượng chơi như thường lệ. Sau vài câu thăm hỏi tình hình bệnh của má Phượng, chàng thầm thì:
    – Vài ngày nữa có chuyến vượt biên, xuất phát từ Bến Tre, là mối thân quen của bạn anh đang ở đảo Galang giới thiệu, chúng mình có nên đi không?
    Phượng e dè:
    – Nghe nói mối quen là an tâm rồi, nhưng anh biết đó, má đang bị tai nạn đụng xe, nằm một chỗ, sạp gạo ngoài chợ phải nhờ Dì Hường coi giúp, làm sao em đi được?
    Hai người yêu nhau cũng hơn ba năm, hai gia đình chưa chính thức gặp mặt, nhưng gia đình Quân yêu mến Phượng như thế nào thì gia đình Phượng cũng xem Quân như người thân thiết trong nhà. Giữa phong trào tìm đường vượt biển rầm rộ thuở ấy, Phượng chưa bao giờ được má cho đi chuyến nào vì ngại thân gái nơi biển cả, nhưng từ khi yêu Quân thì má thoải mái cho hai người đi vượt biên chung, vì dù sao có người yêu đi theo bảo vệ và che chở vẫn tốt hơn đi với đám đông xa lạ. Hai đứa em gái của Phượng tuyên bố không bao giờ đi vượt biên vì sợ biển, chúng bảo chờ anh Hai bên Mỹ bảo lãnh đi máy bay sướng hơn.
    Quân và Phượng đã từng  hụt hai chuyến hồi năm trước. Một chuyến tập trung gần Bến Bạch Đằng Sài Gòn, rồi bị Công An phát hiện, hơn một nửa nhóm bị bắt trong khi hai người may mắn thoát nạn. Chuyến thứ hai tại Rạch Giá Vũng Tàu, chưa kịp lên taxi (ghe nhỏ) thì ghe cuả ban tổ chức bị bắt, cả đám như ong vỡ tổ mạnh ai nấy chạy về Sài Gòn.
    Phượng nhìn Quân, quyết định:
    – Em nghĩ, anh cứ ra đi chuyến này, vì em tin vào câu “quá tam ba bận”, em linh tính thì không bao giờ sai.
    – Còn em thì sao?
    – Tới đâu hay tới đó anh ạ, còn những chuyến sau nữa mà, hơn nữa, chúng ta cứ giao cho số phận chuyện tương lai, còn bây giờ khi có thời cơ thì anh không nên bỏ lỡ.
    Thế là Quân lên đường. Hơn một tháng sau, Phượng nhận được thư báo tin của Quân từ đảo Pulau Bidong, Malaysia. Bức thư đầu tiên của nỗi vui đến bờ tự do, nhưng cũng có nỗi lo vì có cuộc thanh lọc dành cho các thuyền nhân nào đến trại sau ngày Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hợp Quốc tuyên bố đóng cửa các trại tỵ nạn từ ngày 14/3/1989.
    Ở Việt Nam, Phượng có hiểu gì hai chữ “thanh lọc” nên cũng tự tin (xen lẫn ngây thơ) ra khơi vào một chiều cuối năm khi sức khỏe của má đã ổn định trở lại bình thường. Lúc ấy, sau nhiều chuyến tàu vượt biên bị hải tặc Thailand cướp bóc hãm hiếp, nhiều chủ tàu tổ chức vượt biên đã cam kết với “khách hàng” sẽ không đi ngã Thailand dù đó là con đường biển ngắn nhất, thay vào đó sẽ đi xa hơn về hướng Indonesia, Malaysia, Philippines để bảo đảm an toàn. Tàu của Phượng cũng trực chỉ hướng Malaysia vì nhiều người trong chuyến tàu (trong đó có Phượng) đang có người thân ở đảo tỵ nạn Bidong. Nhưng người tính không bằng trời tính, tàu ra ngoài hải phận quốc tế nửa ngày liền bị chết máy, tàu cứ thế mà trôi trên biển Đông. Năm ngày sau, may mắn gặp một chiếc tàu đánh cá của ngư dân Thái tốt bụng, họ kéo tàu vào bờ biển tỉnh Chad của Thaland. Dù không đến được Malaysia như dự định, nhưng mọi người bước lên bờ trong niềm sung sướng vỡ òa, thoát cảnh lênh đênh ngoài đại dương bao la, không bị hải tặc “ghé thăm”.
    Lá thư đầu tiên Phượng gửi cho Quân từ trại tỵ nạn Panatnikhom Thailand là những nhung nhớ đầy vơi, và tiếc nuối khi không đến được Bidong đoàn tụ người yêu. Quân  vội vàng hồi âm:
    – Phượng ơi, kể từ khi biết tin em sẽ ra khơi, lòng anh mỗi ngày ngóng trông. Em biết không, đảo Bidong có cây cầu mang tên Jetty, là cây cầu đón những người mới nhập trại từ biển vào đảo. Biết bao nhiêu lần anh chạy ra cầu Jetty khi nghe tin có người mới đến trại, nhưng giữa những đoàn người bước lên cầu, anh đợi mãi vẫn chưa thấy bóng dáng của em. Hôm nay biết tin em đã đến Thailand, anh mừng lắm. Thôi thì chúng ta không được ở chung trại tỵ nạn, cũng là thử thách cho hai đứa mình. Cả anh và em từ nay sẽ “gặp” nhau qua những lá thư, cùng nhau cầu nguyện qua cuộc thanh lọc đáng ghét này, và hẹn ngày đoàn tụ ở Mỹ, em nhé.
    Thế là từ đó, hai người chuyện trò qua thư, cùng cam kết mỗi tuần phải gửi thư cho nhau. Quân và Phượng đều đi làm thiện nguyện, chờ đến cuối tuần viết thư, nhiều chuyện tâm tình, những câu chuyện thời sự, chuyện thường ngày ở trại, cũng như cho nhau những tin tức cần thiết cho cuộc thanh lọc.
    Phượng làm ở bệnh viện trại Panatnikhom, đúng nghề y tá của Phượng bên Việt Nam. Tại bệnh viện, Phượng kết thân với bác sĩ Nguyệt, trước khi vượt biên chị Nguyệt đã có kinh nghiệm mười năm làm bác sĩ tại bệnh viện Gia Định. Chồng và con trai chị đã định cư ở Canada trong chuyến vượt biển mấy năm trước, nên chị qua Thailand một mình, thế là hai chị em cùng ở chung căn nhà lá ngay kế bên bệnh viện trại.
    Hằng ngày cuộc sống ở trại trôi qua đều đặn như mọi ngày. Buổi sang thức dậy, trước khi đi làm, Phượng tạt qua bưu điện dò thư, có khi là thư từ gia đình và bạn bè bên Việt Nam, có khi là thư người anh ruột bên Mỹ, và vui nhất là ngày có thư của Quân. Chiếc phong bì luôn là màu xanh, bên góc trái là tên người gửi Vũ Đức Quân từ Pulau Bidong thương mến. Sau khi tan ca làm ở bệnh viện, hai chị em về nhà cùng nấu cơm, tắm rửa giặt giũ, đi dạo vài vòng trong trại, sau đó là buổi tối, mỗi người một góc nhà làm việc riêng, đọc sách báo, viết thư, học English hoặc đơn giản là nằm tán gẫu, kể nhau nghe những kỷ niệm còn để lại nơi quê nhà.
    Mỗi lần buổi sáng lãnh thư của Quân là Phượng vui lắm, để dành đó, chờ buổi tối mở ra xem, và cả buổi làm ở bệnh viện chộn rộn mong hết giờ về nhà. Chị Nguyệt đùa:
    – Bữa nay nàng không ăn cơm cũng no ngang hen!? Chị lại được tha hồ ăn hết dĩa gà mìn kho.
    – Ối, em nhường chị hết, em sẽ ăn mì gói Mama ngon hơn nhiều. Mà em có kể cho Quân nghe, lần trước vì mải đọc thư mà nồi gà mìn kho của tụi mình bị khét chưa nà!?
    – Thì em biết lỗi rồi, bây giờ chỉ dám đọc thư buổi tối thôi.
    Lần này, thư có kèm mấy tấm hình Quân chụp ở quán cafe Khu C gần đồi Tôn Giáo ( Phượng thuộc lòng các địa danh trong trại Bidong của Quân, cũng như Quân biết hết những chợ Lào, Bưu Điện,  trường ESL, khu trường tiểu học Nhà Sàn của Panatnikhom. Ôi, người ta yêu nhau, yêu cả đường đi lối về). Hình chụp Quân cùng vài bạn đồng nghệp dạy Tiếng Anh ở trại và có cả mấy cô gái là học trò trong lớp Quân dạy. Quân kể trong thư:
    – Chiều nay anh đang tắm, thì nghe bên nhà tắm nữ (cách nhau bởi bức tường xi măng) vài cô gái nói chuyện với nhau, bảo nhau tắm lẹ lẹ để kịp chạy đến lớp thầy Quân, kẻo hết chỗ phải chạy qua lớp thầy khác, dạy hổng hay bằng thầy Quân. Em thấy anh của em ... có uy không? Đời tỵ nạn, đó là những niềm vui nho nhỏ, khi mình giúp cho đồng bào học thêm Tiếng Anh, được người ta tin tưởng, cũng như em giúp bệnh nhân, được họ tặng quà, chút trái cây, bịch kẹo bánh, ấm lòng phải không em? Chiều nay dạy học xong cả nhóm đi uống cafe tiễn một Thầy đậu thanh lọc chuẩn bị rời trại chuyển qua Sungei Besi đi định cư.
    Chị Nguyệt ngắm nghía tấm hình rồi trêu Phượng:
    – Mấy cô gái trong hình xinh quá, coi chừng có người yêu thầm thầy Quân đó nghen. Ráng mà giữ chàng từ xa nhe nàng.
    Phượng bảo vệ người yêu:
    – Hồi còn ở Viêt Nam, có cô con gái chủ tiệm vàng cùng xóm ảnh, mê ảnh lắm, mà em đâu cần phải giữ, ảnh vẫn chọn em đấy thôi.
    – Ừa, tại em gái của chị xinh đẹp, duyên dáng quá chừng, chàng Quân chẳng dại gì.

*
 
Đó là lá thư cuối cùng Phượng nhận được từ Quân, rồi sau đó, vài tuần cho đến cả tháng vắng thư. Nỗi lo lắng, hoang mang với bao nhiêu câu hỏi trong đầu, Phượng chỉ biết chia sẻ cùng chị Nguyệt. Nếu trước đây chị hay nói đùa, thì lúc này chị rất nghiêm túc, khuyến khích Phượng thật nhiều:
    – Theo những gì em kể về Quân, và theo những lá thư chị đọc được của Quân, chị không nghĩ Quân là người tệ bạc, đổi thay mà không nói một lời giải thích. Trong một lá thư, Quân từng nói đã bàn bạc với các đồng nghiệp dạy English tại Bidong, nếu rớt thanh lọc, sẽ biểu tình chống cưỡng bách hồi hương và sẽ tuyệt thực nếu cần thiết, nên chị đang nghĩ đến khả năng Quân bị rớt thanh lọc.
    Đúng vậy, đâu riêng gì Bidong, mà ở tất cả các trại tỵ nạn Đông Nam Á, từ Hongkong, Indonesia, Malaysia, Thailand, người tỵ nạn đều tổ chức các cuộc biểu tình rầm rộ, nhiều người bị bắt biệt giam, tình hình tỵ nạn cuối mùa rối ren.
    Chị Nguyệt vì có chồng con bên Canada, còn Phượng thì nhờ lý lịch ba mất trong tù “cải tạo”, nên hai chị em may mắn đậu thanh lọc. Trong lúc chị Nguyệt chờ danh sách chuyến bay đi Canada thì Phượng có tên lên đường đi Mỹ, chị dặn dò:
    – Em cứ an tâm và vững tin đi định cư, giữ liên lạc với chị. Còn chị, thời gian này, sẽ nhờ người bạn bên bưu điện, nếu có thư Quân chị sẽ báo cho em. Đồng thời, qua tới Mỹ em phải mau chóng viết thư về Việt Nam dò hỏi bên gia đình Quân. Chị tin rằng, mọi việc sẽ tốt đẹp, chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi và cầu nguyện.
    Máy bay cất cánh khỏi phi trường Bangkok, mang theo Phượng với nỗi lòng ngổn ngang biết bao cảm xúc vui buồn suốt hơn ba năm gắn bó nơi mảnh đất tạm dung này. Hành lý của Phượng đơn sơ vài bộ quần áo, vật dụng cá nhân, và nặng trĩu những lá thư hình ảnh của Quân. Suốt chặng đường bay đến Japan đầy thao thức, nghĩ suy, cho đến khi máy bay đáp xuống phi đạo Tokyo Airport, trong đầu Phượng cũng làm xong một bài thơ .
    Phi trường sạch đẹp, rộng lớn, người ta qua lại tự do, Phượng chợt xót xa cho những đồng bào Việt Nam tỵ nạn còn đang kẹt ở trại, đang bị giam cầm vì chống đối cưỡng bách hồi hương, biết đâu cũng có Quân của nàng trong số đó.
    Phượng mua một ly cafe, đầu óc bỗng tỉnh táo hơn, ngồi viết lại bài thơ trên trang giấy, với niềm tin Quân sẽ đọc được bài thơ vào ngày hai người tương phùng, và ngày ấy chắc không xa lắm, phải không Quân ơi!?
 
PANATNIKHOM NHỚ BIDONG
 
Ở nơi đây không có biển đâu anh
Trại tỵ nạn bốn bề hàng rào vắng
Thailand những buổi trưa hè đầy nắng
Em ước ao nghe sóng vỗ rì rào
 
Những lá thư anh gởi, ôi ngọt ngào
Pulau Bidong bỗng thật gần gũi
Em như thấy anh đứng bên bờ biển
Mắt xa xăm nghe gió gọi tên em
 
Panatnikhom thao thức từng đêm
Em ngậm ngùi xuyến xao bao nỗi nhớ
Đại dương mênh mông đôi mình cách trở
Kể từ thuyền em cập bến Thailand
 
Để mỗi chiều anh dạo bước lang thang
Đến bên cầu Jetty thầm chờ đợi
Cầu tàu đón đưa bao dòng người tới
Mà bóng em vẫn xa thẳm mù khơi
 
Những lá thư trao nhau, tình đầy vơi
Em say sưa nghe anh đang kể chuyện
Kìa Đồi Tôn Giáo những lần cầu nguyện
Hay đêm mưa quán vắng uống cà phê
 
Bãi biển Khu C gió lồng lộng về
Nơi đây em đếm sao trời xứ Thái
Ngôi sao nào có lạc về bên ấy
Nhắn giùm em trăm nhớ với ngàn thương
 
Mong một ngày mình thôi hết vấn vương
Cùng hẹn nhau mừng vui trên đất mới
Bỏ lại sau lưng tháng ngày rong ruổi
Rời xa quê hương, mang phận lưu vong
 
Trại tỵ nạn xưa vẫn ở trong lòng
Dù thời gian phủ bụi mờ, tăm tối
Panat, Bidong cỏ hoang giăng lối
Ký ức ta vẫn rực rỡ hiện về
 
Đất nước mình rồi sẽ qua cơn mê
Mình nắm tay nhau thăm lại chốn cũ
Có một thời Panat buồn khắc khoải
Những đêm dài thương nhớ người Bidong
 
Tháng 3/2024, nghe Biển Gọi …

 

Kim Loan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.