Hôm nay,  

Hòn Kẽm -- Đá Dừng

27/03/202407:54:00(Xem: 2161)


quy 1
Tác giả ở bến thuyền sông Thu Bồn.


Rất nhiều lần trong những năm tháng xa quê, nhìn một áng mây, nghe một tiếng chim, một bản nhạc, cảm nhận thời tiết chuyển mùa, tôi bỗng thấy nhớ quê da diết, nơi ông bà cha mẹ gắn bó một thời gian dài vì tôi rời làng quê năm 12 tuổi, đi học, đi làm, biền biệt nửa thế kỷ nay. Những lần về thăm thường không nhiều ngày, ở với mẹ và người thân rồi đi, vốn hiểu biết của tôi về địa lý Quảng Nam, Quế Sơn nghèo nàn.
    Hôm đi Cần Thơ, đứa cháu gọi bằng chú kể chuyện đi Hòn Kẽm- Đá Dừng, ranh giới tự nhiên hiện nay giữa 2 huyện Quế Sơn-Hiệp Đức, một địa danh mà thời trung học và đến mãi sau này tôi vẫn nghĩ là vùng núi non hiểm trở phía thượng nguồn sông Thu Bồn, nơi được biết đến nhiều bởi trận lụt kinh hoàng ở Quảng Nam năm Giáp Thìn 1964.
    Nói đến nơi này, tôi lại liên tưởng đến 2 câu ca dao nghe được rất nhiều lần: “Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng / Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi”. Hồi mấy năm đầu trung học, mỗi dịp Quốc Khánh (26/10), quận (bây giờ gọi là “huyện”) tổ chức trại, các xã Phú Thạnh, Phú Hương, Phú Diên miệt Bà Rén, Mộc Bài; Sơn Phúc, Sơn Thượng phía trên Đèo Le thường là những xã dẫn đầu mọi mặt, các bạn học của tôi ở Trung Phước, Cà Tang vẫn nổi trội trong học hành sinh hoạt, có vẻ văn minh hơn dân xã tôi và các xã chung quanh dầu là dân miền núi, nghe nói vì là “dân đường nước”(*). Năm 1963 tôi cũng có dịp theo bạn đi xe đạp lên Trung Phước qua ngả Đèo Le và ngủ đêm lại nhà bạn ở Cà Tang.
 
quy 2
Thị trấn Trung Phước.
 
Nửa thế kỷ qua, vật đổi sao dời, cảnh vật đã thay đổi nhiều. Huyện lỵ Nông Sơn, chợ Trung Phước đã mặc một lớp áo mới như nhiều tỉnh thành, thị xã, thị trấn kể cả vùng cao trên toàn quốc. Tôi được đi qua cầu Trung Phước nơi xảy ra tai nạn chìm đò làm chết nhiều học sinh và được cả nước chung góp xây dựng qua vận động của báo Tuổi Trẻ.
    Những địa danh: Trung Phước, Cà Tang, Đại Bình, Bình Yên, Dùi Chiêng, Tí, Sé lần lượt hiện ra, lần lượt được nhìn thấy trên đường đi hay nhắc đến trên chuyến ghe máy ngược sông Thu lên Hòn Kẽm như được tái hiện qua những câu thơ của nhà thơ xứ này: Tường Linh.
    Quế Lộc, chợ Thơm ngày xưa là vựa lúa của cả vùng nhờ nhận phù sa sông Thu qua những mùa lụt bây giờ là những soi bắp bạt ngàn đã thu hoạch chỉ còn trơ lại những gốc khô và những cánh đồng 2 bên đường còn trơ rạ, những nơi nào không thể trồng hoa màu suốt từ Đèo Le đi lên là màu xanh bạt ngàn của bạch đàn và keo lá tràm, thứ nguyên liệu làm giấy, xẻ gỗ 1×3 đóng thùng đựng hàng đã làm thay da đổi thịt mọi vùng quê của Quế Sơn, Nông Sơn, Đại Lộc, Điện Bàn, Hòa Vang…
 quy 3
Cầu Nông Sơn.
 
Từ Đà Nẵng, theo đường Hương An lên Quế Sơn đúng 80km thì đến bến đò Cầu Treo Nông Sơn rồi thuê thuyền máy ngược dòng Thu Bồn để ngắm cảnh. Tôi cũng được nghe 2 câu ca dao này: “Sông Thu bên lở bên bồi / Nửa trôi về biển, nửa xuôi về nguồn”.
    Bây giờ đang là mùa nước cạn, dòng sông hiền hòa, nước lững lờ trôi, cảnh “lở-bồi” hiện ra rất rõ và phong cảnh 2 bên bờ sông tuyệt đẹp. Trong một lúc, người ta bỗng dưng quên hết những ồn ào phố thị, những đua chen áo cơm giành giật mà chỉ thấy hồn mình lắng xuống và hòa nhập với cảnh hữu tình của sông nước, của núi đồi! Riêng tôi, cứ nghĩ về 2 câu sau: Thương cha nhớ mẹ thì về / Nhược bằng nhớ kiểng nhớ quê thì đừng, cứ như là một nhắc nhở cho những ai có ước muốn tìm về sinh sống vì nơi đây quá nghèo, cuộc sống cơ cực và đồng tiền làm ra phải qua nhiều gian khó, nhất là đò giang cách trở. Mà có lẽ cũng đúng với vùng ven sông từ Tí, Sé ngược lên vì đất đồi núi trung du khô cằn.
 
quy 5
Nơi khúc sông Thu Bồn uốn lượn.
 
Suốt dọc dài từ bến đò Cầu Treo đi lên, tôi cố tìm câu trả lời bằng việc Cầu Nông Sơn quan sát đồi núi triền sông, nhà cửa thưa thớt thi thoảng có vài rẫy bắp, phần lớn còn lại cũng là keo lá tràm và bạch đàn nhưng nhìn thấy những con trâu ra sông tắm và uống nước, con nào cũng mập tròn như trái sim chín, vài chiếc xe máy của khách theo thuyền cũng Air Blade, cũng Nouvo, tệ nhất là Yamaha Sirius. Nên chăng chúng ta mừng cho đời sống cư dân nơi đây khi bỏ qua ý tưởng đua đòi của họ? Quan sát khi thuyền ngược sông Thu, tôi cố tìm coi đâu là Hòn Kẽm, đâu là Đá Dừng nhưng không thấy, hỏi tài công cũng không có câu trả lời chính xác mà chỉ nói chung chung. Thấy trên trang của Cục Du Lịch Việt Nam có bài viết cung cấp chi tiết:
 
quy 4
 
“Đây là khúc sông nằm giữa 2 dãy núi cao chừng 500m, có đoạn dòng rất hẹp bởi 2 vách đá với muôn vẻ hình thù kỳ bí nhô hẳn ra như để chắn ngang dòng nước nên có tên gọi Đá Dừng.
    Cái tên Hòn Kẽm-Đá Dừng có từ lâu đời và nơi đây gắn liền với những truyền thuyết dân gian đậm sắc màu huyền hoặc của núi, của sông, của bao phận người nghèo khó vùng hạ du sông Thu Bồn ngược dòng đi khai hoang, mở đất. Thu Bồn là con sông dài và lớn nhất của tỉnh Quảng Nam, với nhiều tên gọi qua từng chặng, từ phía thượng nguồn là sông Tranh, sông Thiêng rồi sông Thu Bồn, dằng dặc hơn 100km”. https:// vietnamtourism.gov.vn/ post/37552.
    Nghe kể lại là vào những đêm trăng sáng mùa hè, mặt sông mượt mà như một tấm thảm nhung, được đi thuyền trên sông hát hò, ngâm thơ, uống rượu với vài người bạn tâm tình thì có thể sánh với niềm vui của Lý Bạch. Nhưng vào mùa mưa, nước từ thượng nguồn đổ về, mực sông dâng cao có khi đến 3m cũng là một đe dọa khôn cùng.
    Chỉ với đúng 12 giờ, từ khi rời nhà (9h30 AM) đến khi trở về, vượt qua 160km, gần 2 giờ ngồi trên thuyền máy chưa kể thời gian dừng lại hỏi đường, mua đồ ăn thức uống và đón đưa những người quen biết đi cùng, chỉ có thể ghi vội những cảm nhận của mình như kỷ niệm về một chuyến đi thú vị về vùng đất mà tôi chỉ biết qua sách báo và nghe kể lại.

-- Nguyễn Hoàng Quý

(*) “dân đường nước” là từ chỉ những người từ quê theo ghe xuống vùng Vĩnh Điện, Hội An, ra Đà Nẵng buôn bán, sớm tiếp nhận nếp sống thành phố hơn những xã khác ở xa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.