Hôm nay,  

Điệu Bolero tháng Tư buồn

06/04/202406:30:00(Xem: 3674)
Truyện

bolero



“Phố nhỏ đường mưa trơn lối về

Trăng sầu nhân thế đậu hoen mi

Có ai ngồi đếm mùa nhung nhớ

Nỗi niềm đầy lại vơi

Mỗi mùa tiễn đưa một người...”

(Nỗi Buồn Gác Trọ – Mạnh Phát & Hoài Linh)


Tiếng hát Cẩm Vân trong trẻo, vút cao, nghèn nghẹn đầy xúc cảm. Tôi buông thả Mi7 và chuyển vội La thứ như chưa muốn ngừng những âm vang cuối. Nốt dứt đoạn ngân dài, tất cả lặng yên, bên ngoài có tiếng gió đêm Sài Gòn vội về, bất chợt. Vốn không “mặn” với bolero, nhưng mấy hôm nay tự dưng bọn tôi lại vô tình chọn những bài hát loại này. Vậy mà “thấm”, mà “cảm” vô cùng.  Từ những ngày đầu tháng 4, 1975 thì căn gác của tôi trở thành điểm tụ họp và thông tin của cả nhóm. Duy dọn về đây ở hẳn. Giảng đường trở thành tin hành lang hơn là lớp học. Một số giáo sư vắng mặt, có tin đã cùng gia đình di tản ra nước ngoài. Sáng cả bọn vào trường, tụ tập, nghe ngóng “ai còn, ai mất” rồi kéo nhau quán cà phê dì Năm bàn bạc tình hình “chiến sự”. Ngồi chán thì kéo nhau về căn gác của tôi, vừa nấu ăn vừa nghe tin đài VOA, BBC và đàn hát vu vơ.  Tất cả năm người chúng tôi đang ngồi bẹp dưới sàn nhà, Cẩm Vân, Ngọc Tuyền (khoa hóa sinh, bạn Vân), Duy, Từ Dung và tôi.
    Đã hơn bảy giờ, trời tối mưa lưa thưa hạt, vẫn chưa thấy bóng dáng của Trầm Hương. Trong ban chấp hành sinh viên trường, trưởng ban ngoại vụ, Trầm Hương họp và đi công tác liên tục. Tuần trước, cùng ban đại diện liên trường: văn khoa, khoa học, dược và sư phạm, đã quyên góp và chuyên chở thực phẩm, thuốc men cứu trợ đồng bào di tản từ cao nguyên và miền trung đang được tạm trú tại Long Thành. “Chừng như có chuyện lấn cấn giữa tổng hội sinh viên Sài Gòn và ban chấp hành các trường”, Trầm Hương cho biết. Dáng dong dỏng cao, khuôn mặt thon rạng ngời, với nụ cười có thể “thắp sáng” cả gian phòng khi Trầm Hương hiện diện. Nhờ sắc dáng đó, nàng rất dễ thành công trong việc vận động quyên góp, kết hợp công tác liên trường. Tôi ngỏ ý tình nguyện đi theo, nhưng Trầm Hương ngắt ngay: “Mình em đi thôi. Anh ở nhà nghe ngóng tình hình gia đình. Để nếu có chuyện gì, mất hết liên lạc thì không được. Nghe em đi!”, tôi đành ở lại. Mà quả thật như vậy, ngày sau cô Út tôi lên mang tin tức và quyết định của gia đình từ Vĩnh Long. “Ở lại, không di tản. Nội dặn, dù xảy ra bất cứ chuyện gì, con cứ ở Sài Gòn chờ tin, nhất định không được về Vĩnh Long!”, cô Út dặn đi dặn lại tôi nhiều lần. Sau khi trả tiền trọ hết năm, đưa tôi một sợi dây chuyền và một số tiền phòng khi “ly tán”, cô Út vội trở về Vĩnh Long ngay... 
    Ngoài phần tin tức chẳng đâu vào đâu của đài phát thanh Sài Gòn: tháo lui trật tự, bảo toàn lực lượng, là bài hợp ca thật hùng tráng:
    “Trên đầu súng ta đi, tổ quốc đã vươn mình
    Trên lưỡi lê căm thù, hờn căm như triều sóng
    Ôi xôn xao... chiêng trống hối thúc
    Đã giục giã khắp chốn rộn ràng
    Ôi lửa thiêng dậy bập bùng
    Tay đốt lửa, tay vung kiếm
    Trên đầu súng xâm lăng, xiềng xích với bạo tàn
    Trên lưỡi lê nô lệ, cùm gông phải gục ngã
    Tay nâng niu cây súng, súng thép...”
    (Trên Đầu Súng – Anh Việt Thu (*)
    Chợt có tiếng xe dừng lại dưới đường. Vặn nhỏ radio, tôi đi nhanh về phía cửa sổ và nhìn xuống. Phía sau chiếc xe Honda là Trầm Hương áo thun nâu quần xanh đậm. Hình như người chở là Toàn. Trầm Hương xuống xe, chào Toàn và bước vội vã lên gác. Nàng nắm tay Từ Dung, Ngọc Tuyền đứng trước cửa rồi chạy vào ôm chầm lấy tôi không “nể nang” ai. Mọi người đã quá quen với tính tình sôi nổi, tự nhiên của Trầm Hương nên không ngạc nhiên.
    – Mọi người cùng ăn cơm nghen. Trễ quá rồi...
    Duy trong bếp nói vọng ra. Trầm Hương vừa ngồi bẹp xuống vừa cười nói:
    – Đói muốn xỉu luôn. Hồi nãy mấy anh bên khoa dược mời kéo em ở lại cùng ăn, nhưng em từ chối, nhờ anh Toàn chở về. Thôi vừa ăn em vừa kể cho nghe. Tình hình lộn xộn, nguy hiểm  lắm. 
    Tôm khô canh cải ngọt và thịt kho hột vịt, đói nên tất cả ăn ngon vô cùng. Trầm Hương cho biết đã vận động được công ty dược phẩm La Thành rất nhiều loại thuốc thông dụng, trụ sinh và nhất là thuốc cầm máu đang quý hiếm.Thực phẩm gồm gạo, mì gói, các loại đồ khô và cả rau cải, thực phẩm tươi đóng thùng. Tất cả sẵn sàng cho chuyến cứu trợ đồng bào di tản ở khu tạm trú Long Thành trong ngày tới. Khi đoàn về tới trường đại học khoa học thì đã thấy lực lượng cảnh sát dã chiến tăng cường trong khu vực chung quanh trường. Vài thành viên trong ban chấp hành sinh viên liên trường đã bị bắt vì tình nghi là Việt Cộng nằm vùng. Nói tới đây Trầm Hương nhìn tôi ra vẻ “quan trọng”:
    – Không hiểu sao có vài người lạ mặt cứ bám theo em mấy hôm nay. Cả anh Toàn cũng nhận thấy như vậy.
    – Mật vụ thì không sao. Nhưng nếu “bên kia”, Hương phải thật cẩn thận đó!
    Duy nói giọng hoài nghi. Tôi nắm tay Trầm Hương:
    – Hay là từ hôm nay, anh sẽ đi theo em cho an toàn.
   – Anh hả? Có anh theo, em càng thêm lo thôi, chứ an toàn gì! Một mình, có chuyện em dễ xoay sở hơn, thiệt mà! 
    – Nhỏ Hương nói đúng, có anh cũng chẳng giúp được gì.Hơn nữa, lúc nào bên cạnh nhỏ Hương cũng có anh Toàn và mấy anh trong ban chấp hành.
    Toàn là anh em chú bác ruột của Trầm Hương bên khoa dược. Có lẽnhư vậy cũng đúng, tôi đành nói xuôi:
    – Vậy anh làm gì để giúp em?
    – Yêu em và nhớ em là đủ rồi! Trầm Hương nói, giọng thật nhỏ.
    Rồi mọi người chợt yên lặng.Tin tức từ đài VOA lập lại việc chuyển giao chính quyền và nội các mới của cựu tổng thống NVT và TVH.Tất cả diễn biến lịch sử xảy ra quá nhanh, đột ngột. Số phận mỗi con người bé nhỏ chúng tôi chừng như chỉ chờ đợi. Chờ đợi một cơn bão nổi, chờ đợi vận mệnh đất nước cuốn theo dòng chảy của lịch sử không ngừng. Ngày mai sẽ ra sao? Không ai muốn nói ra, nghĩ tới nhưng cũng không thể chối từ những đau thương, mất mát đang diễn ra từng phút từng giờ chung quanh. Đài BBC loan tin hàng loạt tướng lãnh cao cấp, các bộ trưởng, nội các chính phủ di tản, đào thoát khỏi Việt Nam sau cựu tổng thống NVT và phó tổng thống NCK.  Niềm tin đang cạn kiệt, và hy vọng chỉ là một lá bài đã “lật ngửa” trên chiếc bạc.
    – Yên lặng kiểu này chắc chết ngột. Từ Dung hát bài gì đi, anh đàn cho.
    Duy phá bầu không khí ngột ngạt và ôm cây guitar nói với Từ Dung.
    – Dung hát đi Dung... Dung hát bài gì hôm trước Dung hát ở sân trường đó... Nhớ rồi, bài Tạ Từ Trong Đêm của Trần Thiện Thanh. Trầm Hương nằm gối đầu trên chân tôi, hối thúc bạn mình. Từ Dung gật đầu, ra dấu cho Duy và cất tiếng hát:
    “... Anh hỏi một câu khi trong đêm dài vọng về tiếng súng
    Sao em cúi mặt không nhìn đôi mắt hứa thương em trọn đời
    Đầu đường chia phôi anh không nói gì
    Nên phong kín lời hẹn tình lứa đôi
    Nếu anh có về khi tan chinh chiến
    Xin em cúi mặt giấu lệ mừng nghe em…”   
    Tiếng hát Từ Dung rung nhẹ, hun hút trong đêm chìm khuất. Xa xa, văng vẳng tiếng đại bác và hàng loạt tiếng súng vọng về, vây quanh thành phố. Điệu bolero thiết tha như đưa tiễn đêm tháng Tư buồn lặng lẽ chìm sâu...      
 
*
 
Gần năm mươi năm sau, vào kênh Youtube bạn chỉ cần đánh dòng chữ: “chương trình ca nhạc bolero” là hàng loạt chương trình sẽ hiện lên không kể xiết. Hầu hết là trong nước. Khắp mọi miền, khắp mọi tụ điểm. Từ những diva, ca sĩ chuyên nghiệp, ca sĩ nghiệp dư,... đến những tiếng ca cùng khắp trên đường phố... đều hát dòng bolero của những thập niên 1960, 1970. Rồi ngay cả các ca nhạc sĩ hải ngoại về nước và được mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi truyền hình ca nhạc bolero: Phương Dung, Giao Linh, Họa Mi, Mỹ Huyền, Elvis Phương, Đức Huy, cố ca sĩ Phi Nhung...
    Nhưng điều gì đã làm cho nền âm nhạc một thời “ủy mị”, “đồi trụy”, “phản động”... sống lại mạnh mẽ, rầm rộ từ nam chí bắc? Từ “phản động” trở thành “trữ tình”? Từ “đồi trụy” trỡ thành “nhân bản”, bất chợt? Hay trong hoàn cảnh đất nước hiện nay phải cần đến sự “ủy mị”, “đồi trụy”  để bớt đi phần nào tính “bạo lực”  và “vô cảm” trong xã hội? Phải chăng sau nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, nhà nước CSVN mới nhận ra cái nghèo nàn, cứng ngắc, vô hồn của văn học nghệ thuật, nhất là lãnh vực âm nhạc. Tính trữ tình, đại chúng và nhân bản gần như là những “yếu tố” cội nguồn của âm nhạc Việt Nam, đã vắng mặt trong những năm qua? Hay chính những “bản án” ủy mị, ru ngủ của dòng nhạc bolero được nhà nước cho áp dụng lại trong tình hình xã hội ngập ngụa bất công, đàn áp, tham nhũng và “cái ác” đang lên ngôi, ngự trị trong sinh hoạt hàng ngày? Cán cân giàu nghèo giữa tầng lớp giai cấp “cai trị” bên trên và quần chúng “bị trị” bên dưới, như một con dốc thẳng đứng. “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”, dòng nhạc bolero phải chăng sẽ góp phần hiệu quả trong công tác văn hóa “tiếng hát át khó khăn”, “tiếng hát át đấu tranh” cho công bằng, cho sự thật của thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai? Nếu không có sự “đồng ý”, “khếnh mại” của nhà nước XHCN “cấp trên”, thì liệu dòng nhạc bolero có tự nhiên phục hồi do nhu cầu âm nhạc của quần chúng? Chắc chắn là không! Sợi chỉ hồng của chuyên chính vô sản có thật “tình cờ” xuyên suốt cả gia tài âm nhạc một thời bị lên án “phản động”, “đồi trụy” ngày nào?  
    “... Đời còn nhiều bâng khuâng
    Có ai vì thương góp nhặt tâm tình này
    Gửi giúp đến cố nhân mua nụ cười
    Và xin ghi kỷ niệm một đêm thôi.”
    (Nửa Đêm Ngoài Phố – Trúc Phương)
    Lê Thị Từ Dung đã vĩnh viễn nằm ở một nơi nào đó của biển đông trong một chuyến vượt biển. Đỗ Thị Ngọc Tuyền đã biệt tích trên chuyến đi đường bộ xuyên qua đất nước Cambodia. Cả hai, Từ Dung và Ngọc Tuyền đều chưa đến tuổi ba mươi. Cặp Cẩm Vân và Duy cũng không thành. Cẩm Vân lấy chồng, sau đó nghỉ dạy và hiện làm chủ hai nhà hàng nổi tiếng ở Sài Gòn. Duy vẫn độc thân, họa sĩ vẽ phông sân khấu, trình bày bìa sách, lịch và hiện nay có phòng tranh ở quận 5 thành phố. Trầm Hương, người con gái  dấu yêu một thuở, và chồng là Huỳnh Nam Giao sinh sống ở Củ Chi. Hương đã về hưu và đang cùng gia đình chăm sóc cửa tiệm bán sinh tố, trái cây tươi. Giao sau một lần lâm bệnh nặng, cũng đã về hưu hẳn và trông coi khu vườn trồng cây ăn trái. Công việc làm ăn khá giả, cuộc sống ổn định. Chúng tôi đã bước qua tuổi “tri thiên mệnh”, tóc ngả màu bạc trắng đời thường. Mọi nỗi vui buồn có chừng mực hơn. Trong câu chuyện trùng phùng đã mang nhiều dấu tích của trải nghiệm, của an phận trong mỗi nụ cười. Người ở lại, kẻ ra đi cũng chỉ là những may rủi kiếp người? Phải chăng đời này chúng ta chẳng “nợ nần” gì nhau, hãy để mọi niềm tin yêu xuôi theo dòng số phận? Hãy để riêng nhau một góc đời và cầu mong hạnh phúc cho người.
    Chừng như mỗi số phận của chúng tôi chỉ luôn đi âm thầm, lặng lẽ bên bờ lề của lịch sử. Không biết cuộc đời đã cuốn phăng chúng ta vào cơn lốc? Hay chính chúng ta đã lao mình vào dòng xoáy của chính cuộc đời mình? Cho nào thế nào, sự hữu hạn của kiếp người, chỉ cho mỗi chúng ta chiêm nghiệm được một phần thật nhỏ nhoi của thân phận. Không có mẫu số chung cho định mệnh. Hãy mở rộng mọi ý thức và đừng bao giờ đóng kín những đổ vỡ của trái tim. Cuộc đời sẽ tin yêu ta, nếu ta đặt trọn mọi tin yêu có thể cho người. Lá khô rụng kín mùa này là mầm non hoa trái mùa sau. Có bao nhiêu dư âm xưa trong đêm dài chờ sáng? Có bao nhiêu cuộc chia ly trong giọt lệ trùng phùng? Trái tim đang đập theo từng nhịp của hôm nay, sao dòng máu tôi cứ vẫn luân lưu, tuần hoàn trong mỗi tế bào của quá khứ? Những ngày tháng Tư sao vẫn buồn và khoắc khoải trôi qua:
    “... Phương trời mình đi xa thêm xa
    Nghe vạn mùa thu sau lưng ta
    Em ơi, em ơi! Thu thiết tha
    Ơi người vì ta qua phong ba
    Có còn gì sâu trong tâm tư
    Mắt lệ mờ hoen dư âm xưa...” 
   (Tình Lỡ – Thanh Bình) 
 
Nguyễn Vĩnh Long
(Những ngày tháng Tư đầy nỗi nhớ).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.