Hôm nay,  

Đọc “TRỌN ĐỜI YÊU THƯƠNG” của Duy Nhân

14/05/202408:03:00(Xem: 2627)
Screenshot 2024-05-15 135511

Tôi vừa được nhà văn Duy Nhân tức Nguyễn Đức Đạo trao tặng tập truyện “Trọn Đời Yêu Thương”. Sách dày 336 trang với trang bìa được trình bày thật đơn giản nhưng nội dung rất súc tích. Tập truyện gồm có 29 bài văn xuôi và 7 bài thơ. Lời văn bình dị dễ hiểu, phong cách viết văn cho thấy bản tính của tác giả Duy Nhân là chân thật và thẳng thắn. Đây là một tập truyện ngắn mà tác giả đã kể về cuộc đời mình và những người thân giống y như một cuốn hồi ký.
    Cuộc sống lúc thiếu thời của tác giả Duy Nhân thật khó khăn, vất vả nhưng tác giả đã không ngừng phấn đấu từ một cậu bé miền quê để vươn lên thành một nhà khoa bảng. Ngoài công tác chuyên môn của một chuyên viên Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam, tác giả còn đọc sách, viết văn và làm thơ. Khi về già, tác giả có một đam mê đặc biệt là nhiếp ảnh. Tác giả đã đi khắp mọi miền, đặc biệt về Việt Nam, để săn lùng những danh lam thắng cảnh đưa vào ống kính.
    Cũng như mọi thanh niên trong hoàn cảnh nước nhà đang có chiến tranh, tác giả Duy Nhân  được động viên gia nhập quân ngũ để thụ huấn khóa 1/72 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và được phân bổ về Tiểu Đoàn Địa Phương Quân 472 đi chiến đấu ở các mặt trận tại tỉnh Vĩnh Bình. Rồi sau đó, khi bị đổi về một Tiểu Đoàn Địa Phương Quân khác ở tỉnh Kiến Tường thì tác giả Duy Nhân lại tiếp tục đi “hành quân liên miên, toàn những trận đánh lớn.”
    Khi cộng sản xâm chiếm miền Nam, tác giả cũng bị tù “cải tạo” đi lao động khổ sai nhưng không hề than vãn, oán trách hay hận thù mà coi đây như là một thử thách nên tác giả vẫn cứ làm thơ:
 
“Trời sinh ra với tâm hồn nghệ sĩ
Chốn lao tù, ta vẫn cứ làm thơ
Yêu làm sao, áng mây trắng trên trời
Mà mơ đến những bến bờ vô định…”
 
Tất nhiên khi ra tù dưới chế độ mới, tác giả không thể nào được tuyển dụng vào cơ quan chính quyền nhưng may mắn được giới thiệu vào làm việc tại Liên Hiệp Xã thành phố là một cơ quan không có tính chất chính trị, chuyên quản lý các hợp tác xã và tổ hợp tiểu thủ công nghiệp. Thế mà đã có người nghĩ sai là tác giả đã cộng tác hay hợp tác với chính quyền mới.
    Vì ra tù quá sớm không đủ điều kiện đi định cư ở Mỹ theo diện HO nên tác giả đã được người em vợ bảo lãnh sang sống ở Chicago trong 23 năm qua cùng với gia đình đều nhập quốc tịch Mỹ và được hưởng mọi quyền hạn cùng phúc lợi xã hội. Tại đây tác giả đã tích cực tham gia các sinh hoạt cộng đồng và các cuộc họp mặt thân hữu. Tác giả sống rất hòa đồng, cởi mở và vị tha nên được nhiều người quý mến.
    Cuộc đời của tác giả gặp được nhiều may mắn mà tác giả coi như một phép lạ: Từ một đơn vị tác chiến nguy hiểm, tác giả được điều động về làm việc tại Tòa Hành Chánh tỉnh mà tác giả thắc mắc không biết do đâu. Sau này tìm hiểu, tác giả mới biết trên một chuyến xe đò, tình cờ ngồi gần và trò chuyện với một cụ già là một chức sắc Cao Đài khiến cụ này mến mộ và ghi vào sổ tay tên Nguyễn Đức Đạo với số quân rồi chính cụ này đã gởi gắm tác giả cho Trung Tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Vĩnh Bình nên mới được như vậy. Tác giả nghĩ rằng cứ ở hiền làm lành thì sẽ có quới nhơn phù hộ! Tác giả còn tin vào số mệnh: Sau khi chấm dứt nhiệm vụ ở Tòa Hành Chánh tỉnh thì tác giả được điều động về làm Trưởng ban Một của một tiểu đoàn tại Ao Bà Om rồi ông Tỉnh Trưởng mới lại ra lệnh thuyên chuyển tác giả về tỉnh Kiến Tường mà tác giả tự hỏi tại sao Tỉnh Trưởng của tỉnh này lại có quyền thuyên chuyển thuộc cấp qua tỉnh khác? Tác giả viết: “Chuyện xảy ra đã mấy chục năm nhưng khi nghĩ tới, tôi vẫn còn thắc mắc vì cho tới nay, chưa có ai lý giải được cho tôi.”  Bỗng vào một ngày cuối năm, tác giả được lệnh trình diện Tiểu Khu Kiến Tường để nhận sự vụ lệnh về Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu đang cần những sĩ quan có trình độ đại học Luật Khoa hoặc Quốc Gia Hành Chánh. Sau một thời gian ngắn phục vụ nơi đây, tác giả lại được biệt phái trở về nhiệm sở cũ là Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam. Như vậy, tác giả đã gặp từ may mắn này đến may mắn khác. Đúng là con người cũng có số như giày dép!
    Tác giả đã trọn đời yêu thương gia đình, dòng họ, bạn hữu, đồng loại, đồng bào và quê hương đất nước. Tác giả viết: “Khi nhớ về Việt Nam thì tôi nhớ đến những người thân của tôi còn ở đó. Tôi nhớ bà ngoại tôi, ba tôi, anh hai tôi, ba vợ tôi là những người đã mất.” Viết về người cha, tác giả đã thổ lộ: “Từ Sài Gòn, ba được xe của hãng đưa rước đi làm hàng ngày. Mỗi sáng, tôi ra mé lộ trước nhà canh đúng giờ xe chạy ngang qua để xem coi có trông thấy ba tôi không. Khi xe chạy ngang qua, ba tôi thường thẩy xuống cái gói đồ ăn mà má tôi đã làm sẵn cho anh em tôi.”
    Viết về mẹ và bà ngoại, tác giả rất đau buồn mà nói rằng: “Mẹ tôi đã mất khi tôi mới mười một tuổi.” “Ông Trời vẫn còn thương nên thay vào vị trí của Mẹ, đã cho tôi có Bà Ngoại” Tác giả cũng không quên nhắc đến cậu út Tám: “Lúc bốn, năm tuổi tôi thường bị Cậu Tám bắt nhốt vào nhà tắm giữa đêm khuya. Mặc cho tôi gào thét, kêu la cách nào, Cậu Tám vẫn không mở cửa.” Bà Ngoại lại rầy Cậu: “Mày làm nó sợ, lớn lên nó bị tâm thần, nó khật khùng thì làm sao?”Nhắc đến ba của vợ, tác giả viết: “Ông là người kỹ lưỡng, khó tính, rất hoài cổ, yêu thương con cháu, luôn mang nặng trong lòng một tâm tư phiền muộn, nhất là trong những ngày tháng cuối đời. Là con rể nhưng tôi có nhiều thời gian gần gũi với ông, hiểu ông hơn những chàng rể và cô dâu khác, kể cả những người con của ông.”  Đặc biệt về tình yêu thương người anh cả, tác giả Duy Nhân đã nhắc lại những kỷ niệm: “Khi cần tắm giặt, anh tôi dẫn mấy đứa em xuống suối trước nhà, tha hồ đắm mình trong dòng nước trong veo, mát rượi.” “Cũng tại dòng suối này, hai anh em tôi đi hái rau, xúc tép, bắt những con cá nhỏ trong những đám rong rêu hai bên bờ, thỉnh thoảng cũng bắt được những con rắn bông súng, đem về kho mặn thành một món ăn ngon lành.”
“Trong đời, tôi đã chứng kiến nhiều cái chết của người thân nhưng chưa lần nào cảm thấy mất mát và đau khổ nhiều bằng cái chết của anh Hai tôi.”
    Còn đối với người vợ thân yêu thì:
 
“Anh muốn em còn nét ngây thơ
Muốn em tựa cửa đứng mong chờ
Mỗi chiều gió lộng, hoàng hôn xuống
Đôi mắt sầu dâng ngập ý thơ
                   
Anh vẫn nhớ hoài đôi mắt em
Nhớ hàng châu ngọc đọng sau rèm
Một trời thương nhớ màu xanh biếc
Mây có ngừng trôi trong mắt em?”                                                                        

T
ác giả Duy Nhân rất hãnh diện về các con cháu của mình: “Con trai tôi cũng thừa hưởng cái gen của ông nội là hiền lành quá đỗi!” Còn các cháu nội ngoại Allison, Brandon, Charlie và Emma đều là những đứa trẻ thông minh, giỏi giang và có nhiều tài năng đặc biệt. “Allison tự tin, xách vợt ra sân thi đấu tennis với các bạn cũng như đĩnh đạc ngồi vào chiếc dương cầm biểu diễn trước công chúng.” Brandon “thường một mình múa võ và nói I’m powerful và làm ra vẻ như sẵn sàng vào cuộc.” Khi thành ông nội của Charlie, tác giả mừng ra mặt:
 
“Cháu mình nối dõi tổ tông
Bảy mươi sáu tuổi còn mong nỗi gì”
“Charlie, cháu của nội ơi
Sao con giống nội quá trời con ơi
Với vầng trán rộng thảnh thơi
Sẽ nên nghiệp lớn, rạng ngời nhà ta”
 
Charlie hay tò mò, táy máy các thiết bị, máy móc trong nhà và rất thương mến em Emma.
    Tác giả Duy Nhân cũng không quên đem lòng yêu thương đến các bạn hữu như mỗi lần có ai đau ốm đều đến thăm viếng và an ủi cũng như giúp đỡ khi hữu sự. Đối với bạn hữu, tác giả Duy Nhân có quan niệm:
 
“Cuộc đời rồi cũng phù vân
Sờ lên đầu bạc đa phần trống trơn
Hơi đâu tính chuyện thiệt hơn
Cùng chung ngồi lại sau cơn giận hờn”
 
Trong niềm đam mê nhiếp ảnh, mỗi năm Duy Nhân về Việt Nam một hoặc hai lần và đã kết bạn với những người cùng sở thích cả nam lẫn nữ thuộc mọi lứa tuổi để cùng nhau đi chup hình những danh lam thắng cảnh như làng gốm Bát Tràng, làng văn hóa-du lịch Lũng Cẩm ở Hà Giang, khu du lịch Hoàng Liên Sơn, trung tâm nghỉ dưỡng trên vịnh Nha Trang, bãi biển Sầm Sơn, vịnh Hạ Long, ruộng bậc thang thuộc vùng Tây Bắc, hang Pác Bó, thác Bản Giốc, Phan Rang, miền Tây Nam Bộ v.v…
    Với những bài viết như “Việt Kiều về quê”, “Trưởng Công An Phường”, “Hợp tác xã”, “”Ông Chủ tịch”, “Khẩu K54 trong hộc bàn”,  “Văn hóa và cải cách”, “ Chữ nghĩa của đỉnh cao trí tuệ loài người” và “Người không nhận tội”, tác giả Duy Nhân đã nói lên cảm nghĩ của mình về bản chất của chế độ cai trị hiện thời tại Việt Nam. Tác giả viết: “Hai mươi năm sống dưới chế độ mới có tên gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam một thời gian tương đối đủ để cho tôi hiểu chế độ này về mọi mặt từ xã hội đến kinh tế, văn hóa, chánh trị v.v…”
    Trong truyện “Sân khấu cuộc đời”, tác giả đã diễn tả cái hệ lụy của cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn suốt hai mươi năm.
    Nói tóm lại như lời mở đầu của tác giả “mong sao các em, các con và các cháu tôi sẽ đọc, hiểu mà không quên ông bà, tổ tiên, cội nguồn, gốc rễ của mình, nhất là các cháu của tôi đã sinh ra và lớn lên ở Mỹ”. Đây cũng là điều mong muốn đối với tất cả giới trẻ sinh ra và lớn lên tại hải ngoại. Và đây là các bài viết mà những người cùng thế hệ với tác giả nên đọc để ôn lại lịch sử nước nhà và suy nghĩ đâu là chánh, đâu là tà!
 

Phan Lục

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác...
Hans Fallada, tên thật là Rudolf Ditzen, người đã sống giữa những biến động của nước Đức — từ sự sụp đổ của Đế chế, đến cơn bão của Thế chiến thứ nhất, rồi bước vào cơn ác mộng của Đệ tam đế chế. Trước chiến tranh, Fallada là một nhà văn nổi tiếng, tác giả của Little Man, What Now?, được Hollywood dựng thành phim. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, ông bị cấm xuất bản, bị Gestapo rình rập, và bị ép phải viết những tác phẩm phục vụ tuyên truyền. Tưởng chừng như bị nghiền nát giữa bạo lực và sợ hãi, ông lại tìm thấy trong ngục tối một đường sống của tâm hồn – viết. Trong ngục tối, ông bí mật viết nên ba cuốn tiểu thuyết mã hóa, và sau chiến tranh, vừa thoát xác một người sống sót, ông viết cuốn cuối cùng: Mỗi người đều chết một mình (Every Man Dies Alone).
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt trong hành trình của Ocean Vuong (1). Nhà văn, nhà thơ gốc Việt nầy đã trở thành một trong những khuôn mặt quan trọng nhất của văn chương Mỹ đương đại. Không còn là “hiện tượng thơ”, không còn được biết đến qua nỗi đau di dân, không còn đứng trong hào quang của Night Sky with Exit Wounds hay thành công bất ngờ của On Earth We’re Briefly Gorgeous trước đây, Ocean Vuong năm 2025 là một nhà văn đang mở ra biên giới mới của chính mình với The Emperor of Gladness, NXB Penguin Press, New York, 2025)...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.