Hôm nay,  

Người Thầy Dạy Cũ

28/05/202415:58:00(Xem: 3955)

 Tran Hoai Thu

Trần Hoài Thư là thầy dạy học của tôi hồi còn trung học. Thày dạy môn Công Dân Giáo Dục lớp đệ tam nên cũng không ăn khách lắm. Môn này học trò thường cúp cua hay nếu ở lại học cũng chỉ nghe cho hết giờ. Đó là niên khoá đâu như 62-63 hay 63-64 gì đó. Những năm đó là những năm bắt đầu có cuộc tranh đấu của Phật giáo ở Huế chống lại sự đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm trong dịp Phật Đản.

Thầy tên là Trần Quý Sách, độ khoảng 21, 22 tuổi, dáng cao lênh khênh, ăn mặc bình thường, đeo kính cận. Thầy vào lớp tôi giữa tiếng cười của đám học trò con trai, con gái, phá như quỷ. Thầy giảng bài nhẹ nhàng, có câu nói lắp, cà lăm một chút xíu. Tôi không để ý nhiều vì cũng như nhiều học trò lúc đó, học cho hết giờ, vì môn công dân giáo dục cũng như những phụ khác như Nhạc, Vẻ hay Hán Văn, đều là những môn, “học mà chơi”.


Đến khi cuộc tranh đấu ở Huế nổ lớn ra, ở Huế có tờ Lập Trường, do một số giáo sư Đại Học Huế chủ trương, trong đó chủ chốt là giáo sư Cao Huy Thuần, đã lôi kéo một số cây bút có tiếng tăm cộng tác. Thầy đọc tờ báo này và tôi cũng đọc báo này, nên hai thầy trò thân nhau. Ôi, hồi đó, chuyện văn nghệ, viết văn, làm thơ, sao mà quý, tôi biết thầy viết văn, làm thơ, nên tôi rất mê thầy, dù chưa được đọc ở thầy một bài nào cả.


Trong niên học đó, tôi là người học trò được thầy thương. Tôi đã kết thân với thầy, đã đến nơi thầy ở trọ, đã được nhìn căn phòng bề bộn thầy ở với tùm lum sách báo, tranh vẽ và rác rưởi. Tôi nghĩ những người có tâm hồn văn nghệ, làm thơ, viết văn, thường sống trong những bộn bề như vậy.


Có một chủ nhật nào đó, thầy đã về nhà tôi. Nhà cha mẹ tôi ở là một vùng quê cách quận lỵ khoảng 8 cây số. Thầy đã ở lại cùng tôi, đã ăn cơm trưa với món canh bông lý mà mẹ tôi đã nấu đãi thầy. Ngày ấy thật vui và vô tư biết bao nhiêu. Và cũng từ sau những ngày ấy, thầy đã bỏ trường mà đi. Từ đó, tôi không gặp thầy nữa nhưng tôi biết thày đã vào quân đội.


Sau này lớn lên, tôi vào Sài Gòn học đại học, rồi chiến tranh lan rộng, tôi cũng vào lính như thầy, cũng ra đơn vị tác chiến, cũng đọc sách, cũng làm thơ, viết văn, nhưng tôi chưa được gặp lại thầy một lần, mà chỉ đọc thày ở một số truyện ngắn, đăng rãi rác ở đâu đó như là trên Văn, trên Ý Thức... Tôi theo dõi thày rất sát qua thơ văn thầy. Dù thầy đi cùng nơi, khắp xứ, ở đâu, nơi đâu, tôi cũng theo thầy vơi những truyện thầy đăng báo. Tôi biết thầy đời lính cũng long đong hết cở. Bị cận thị nặng nhưng thầy vẫn đi tác chiến, làm trung đội trưởng trung đội thám kích, sư đoàn 22 bộ binh, đánh giặc cũng “chì một cây”, sau đó thầy bị thương, rồi đào ngũ, rồi ra lao công đào binh, rồi được phục chức về Quân Đoàn IV+QK4 với chức vụ phóng viên chiến trường.
 
Sau 30 tháng tư bảy lăm, tôi đi tù, thầy cũng đi tù, thầy đi tù về, đi bán cà rem dạo cho trẻ em, rồi thày vượt biên và thoát. Tôi cũng đi tù nhưng sau khi về phải sống lây lất ở Việt Nam đến mười bốn năm, đến mãi năm chín lăm, tôi mới được đi xuất cảnh theo diện HO.

Qua Mỹ, đọc những tạp chí văn học thấy tên thầy. Tôi mừng húm. Tôi hỏi Khánh Trường địa chỉ của thầy, tôi mới bắt được tin tức thầy, liên lạc với thầy qua Email. Thầy viết thư cho tôi, viết về những ngày dạy ở Tam Kỳ, Quảng Tín, về những người nữ sinh xinh đẹp đã một thời làm xao động con tim của thầy (và cả tôi nữa):

Mấy mươi năm chưa một lần về thăm
Thị trấn ấy biết còn đàn sáo ngủ
Ngôi nhà trọ còn giàn hoa giấy đỏ
Gốc cây xưa còn đỏ một khoảng trời
Khi em một lần của tuổi rong chơi
Và tôi một lần,bạn cùng bảng phấn…

-----------------------------------------

 Nhớ ngày nào tôi đến nhà em
Mẹ em đãi thày nồi canh bông lý
Bông lý quê em ngập đầy gió núi
Như nắng vàng đầy ngập vườn sân
Như những ngày tôi có Trần Cao Vân

----------------------------------------

Tôi bỏ nậu đi bỏ lớp trường xưa
Bỏ quán cô Thuyền, bỏ nhà Nam Ngãi
Bỏ chiếc xe hàng qua đêm đậu lại
Cùng tiếng máy đèn rền rĩ thâu đêm.



Thầy đã nhớ về và tôi cũng nhớ về những kỷ niệm xưa cũ đó, nhưng tôi chưa được gặp thầy một lần. Từ năm 1964 đến năm 2005, đúng là 41 năm.

Trong thời gian đó đến nay, Trần Hoài Thư đã in được những quyển sách sau:

Trước 75:

- Nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang (Ý Thức xuất bản)
- Những vì sao vĩnh biệt (Ý Thức)
- Ngọn cỏ ngậm ngùi (Ý Thức)
- Một nơi nào để nhớ (Con Đuông)

 

Sau năm 1975 ở Mỹ:

- Ra biển gọi thầm (1995)
- Ban Mê Thuột, ngày đầu, ngày cuối.
- Thơ Trần Hoài Thư
- Ngày Vàng (thơ)
- Ô cửa (thơ)

 

Và hẳn là vẫn còn nữa… tôi không nhớ hết.

Trong bốn năm năm trở lại đây, Trần Hoài Thư  chủ trương “Thư Quán Bản Thảo”, đây là một tập san không định kỳ, do Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Trần Bang Thạch, Cao Vỵ Khanh thực hiện, mục đích như nhà phê bình Đặng Tiến viết trong Thư  Quán Bản Thảo số ra ngày 23-4-2006 (năm thứ năm) như sau:

“Hiện nay, sau khi tái bản thơ Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, truyện ngắn Y Uyên, nhóm Thư  quán của Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhan đã sưu tầm và in lại thơ Vũ Hữu Định để tặng biếu, không bán, trong tinh thần bảo lưu và truyền bá di sản văn học miền Nam. Chúng tôi đã có lần đề cao thiện chí này, nay một lần nữa, xin công nhiên ca ngợi một việc làm tâm huyết.”

Tại sao lại là Thư Quán Bản Thảo? Tôi nghĩ, Trần Hoài Thư là kỹ sư điện toán, nên ông đã dùng computer để đánh máy, lay out và in ngay (có máy in nhỏ in mỗi lần vài ba chục cuốn đến một vài trăm cuốn, đóng bìa luôn và gởi tặng bạn bè. Khi có nhu cầu sẽ in thêm, nghĩa là sản xuất tại chỗ từ khâu đầu đến khâu cuối.)

Tôi rất phục công việc này của nhóm chủ trương Thư  Quán Bản Thảo, mà đầu tàu là Trần Hoài Thư. Miệt mài trong năm năm, Thư Quán Bản Thảo đã cho trình làng đều đặn những cuốn sách sau đây:

* Những tuyển tập đăng thơ, truyện của các tác giả cũ, trước bảy lăm:

Bùi Nghi Trang, Hạc Thành Hoa, Từ Thế Mộng, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Hiền Ân, Cao Thoại Châu, Lữ Kiều, Lê Ký Thương. Truyện ngắn Y Uyên.Trong vòng 3 tháng đầu năm 2006, Thư Ấn Quán đã in được những tác phẩm:- Thơ Vũ Hữu Định (tặng)
- Văn số 125 tháng 3 năm 1969, chủ đề Đầu Xuân Lộc Mới (in lại, tặng)
- Một mình như cánh lá, thơ Hạc Thành Hoa (tặng)
- Quanh quẩn bên đời, tập truyện của Trần Bang Thạch.
- Hương Sắc Mong Manh (thơ Hoài Khanh, (tặng)

Tôi đọc hết những tập do Thư Ấn Quán in và xuất bản, gởi tặng tôi, tôi mới thấy công trình của nhà văn Trần Hoài Thư thật đáng cảm phục và cả tấm lòng đối với văn học miền Nam trước bảy lăm. Những bạn văn thuở ấy, bây giờ sống ở trong nước vất vưởng như những chiếc bóng. Không người nào ngất đầu lên nổi nếu không chấp nhận phục tùng chế độ. Một Trần Dzạ Lữ thuở nào với thơ ngợi ca màu tím Huế, cô gái Huế thì bây giờ suốt ngày đứng dang nắng giữ xe đạp ở chợ Trần Hữu Trang, Phú Nhuận. Một Hà Nguyên Dũng bịnh lên bịnh xuống, không làm được gì ra tiền. Cả gia đình chỉ còn mong chờ vào nồi xôi của người vợ, bán buổi sáng, ở trong hẻm một con đường nhỏ  Ngã Tư Bảy Hiền. Một Đynh Trầm Ca gần ba mươi năm sống lang bạt ở Sài Gòn, cố tìm một mái ấm cho gia đình mà không tìm được, cuối cùng anh phải “quy cố hương”, về lại Vĩnh Điện nới có ngôi nhà của người mẹ để lại:

Buộc phải lên tàu-hề quy cố hương
Riêng ta biết ước mơ người vẫn chảy
Có những điều mắt thường không dễ thấy
Cảm thông nhau như một nỗi buồn

Ba mươi năm đổi đời di dân
Nơi nào đến cũng đường cùng đất dữ
Nay về lại quê xưa chốn cũ
Bạc áo giang hồ –xếp nợ văn chương


Nguyễn Hữu Thụy (tặng Đynh Trầm Ca)

Cho nên Trần Hoài Thư, với tấm lòng muốn tìm lại những người bạn cùng thời xưa, một thời đi lính, một thời viết văn, làm thơ, in lại những tác phẩm của họ rồi tặng không cho thân hữu, bạn bè hay độc giả yêu thích văn chương, đó là một tấm lòng đáng trân quý biết là dường nào.

Gặp

Thế là đã bốn mươi mốt năm, thày trò tôi thất lạc nhau. Thất lạc đây có nghĩa là không được tay bắt mặt mừng, ôm choàng lấy nhau, nhìn mặt nhau, coi có phải là người mình mong đợi bằng xương bằng thịt đây không? Bốn mươi mốt năm dài quá, một nửa đời người chứ ít sao. Thì hôm tháng bảy (hay tháng sáu, hay tháng tám, tôi quên đi) năm 2005, tin từ nhà thơ Đạm Thạch, “Trần Hoài Thư sẽ về Cali chơi, thăm anh em văn nghệ”. Rồi sau đó, tôi được tin từ email của Nguyễn Nam An thông báo sẽ gặp nhau ở cà phê Factory. (Còn nhiều nữa, Tưởng Năng Tiến lên email nói sẽ dẫn đi nhậu không say không về, nhưng sau đó chẳng thấy đâu).    

Hôm đó là thứ bảy, tôi đến sớm cùng Thành Tôn, Nguyễn Nam An, Đạm Thạch, sau đó có Nguyễn Lương Vỵ, Nguyễn Mạnh Trinh, Huỳnh Hữu Ủy, Hồ Thành Đức… thì Trần Hoài Thư đến cùng vợ. Bốn mươi mốt năm, thầy vẫn cao lênh khênh, tóc có bạc đi, mắt kiếng cận có dầy thêm, nhưng nhìn thầy tôi vẫn nghĩ đến người của bốn mươi mốt năm trước, vẫn nụ cười ấy, vẫn lối ăn mặc bình dân ấy, thầy không thay đổi gì trong ý tưởng của tôi. Khi tôi bắt tay thầy, tôi nói, em là Trần Yên Hoà, học trò thầy hồi ở trường Trần Cao Vân, Thầy ôm lấy tôi, tôi ôm lấy thầy, cảm động đến ứa nước mắt.

Ngày gặp gỡ đó tôi không bao giờ quên. Đến bây giờ, khi viết bài này, tôi vẫn cứ nghĩ đến một nhà văn Trần Hoài Thư đang lo in ấn những tác phẩm của bạn bè bằng lối in mới, tự in rồi đóng bìa luôn. Thầy vẫn nguyên một tấm lòng trong sáng, cố gắng thực hiện để đem những tác phẩm của bạn bè viết văn, làm thơ, trước bảy lăm, đến cho độc giả hải ngoại.

 

Trần Yên Hòa

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tam canh ngồi niệm Phật Quan Âm | Trước mắt gương treo vừa đúng tầm | Sáng rực bên này sông Bất Nhị | Tám phương chợt hiểu Phật là Tâm
Bạn nghe một người nói, nhưng không lên tiếng, bạn suy nghĩ nhưng không bộc lộ. Bạn nén sự giận dữ xuống, bạn bôi xóa sự khinh bạc, bạn chờ cho những lời ca tụng giả dối lắng xuống, bạn giữ lại lời khen ngợi đối với một người xứng đáng thêm một ngày nữa, để nó được nung chín trong lòng.
Cầm cuốn sách mới trong tay, tôi lại nhớ có lần ở quán cafe, Trịnh Y Thư băn khoăn, không biết chúng mình in sách vào thời này có phải là chuyện vô ích không, có phải là quá mơ mộng không. Với đa số, nhất là thế hệ trẻ hơn thì có lẽ là cái gật đầu, nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi yêu quý cái vô ích, cái mơ mộng ấy. Tôi xin chia sẻ với quý vị cảm xúc rất riêng của tôi về sách. Nếu không có sách làm sao ta có thể cầm được trên tay cái vật thể nhỏ bé này, một thành quả nhìn bắng mắt cầm bằng tay, chứa đựng trong đó những con chữ đồng hành cùng những phút giây cảm hứng. Không có sách làm sao tôi có thể cảm nhận được trọn vẹn cái sức nặng của hạnh phúc hữu hình trên trang giấy với những dòng chữ ký tặng này? Và khi đọc sách, nghe được tiếng sột soạt khi lật trang giấy, ngửi được mùi giấy mới và cả mùi hương của sáng tạo. Một khi không còn ai in sách nữa thì những tủ đựng sách đẹp đẽ sẽ là món đồ cổ chứng nhân một thời kỳ sách huy hoàng. Và nếu không có sách thì làm sao chúng có được nhữn
Một truyện ngắn kinh điển của văn hào André Maurois, qua bản dịch của nhà văn Thân Trọng Sơn.
Không phải ngẫu nhiên mà Viết Về Nước Mỹ được nhà thơ Nguyên Sa gọi là “Lịch Sử Ngàn Người Viết.” Mà nếu tính cho đến ngày hôm nay, con số “ngàn” ấy chắc đã lên tới chục ngàn, trăm ngàn. Viết Về Nước Mỹ năm nay là năm thứ 25.
Trong không gian tĩnh lặng của một buổi sớm mùa thu tại thủ phủ Sacramento. Trời đã se lạnh, gió mùa vừa sang và những cơn mưa cũng đang bắt đầu nặng hạt, con chắp tay hướng về phương trời xa, nơi pháp thân Thầy vẫn tỏa rạng giữa hư vô. Bao nhiêu lời muốn nói, rồi bỗng hóa thành im lặng, vì làm sao dùng được lời phàm để nói hết công đức, trí tuệ và từ bi của một bậc Thạc đức như Thầy, người mà bốn chúng gọi là bậc minh sư, bậc long tượng Phật Giáo Việt Nam – Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ – người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc và nhân loại.
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót. Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza...
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.