Hôm nay,  

Ba Của Các Con Tôi

08/06/202416:25:00(Xem: 2924)
freestocks-r_oV6smBBYk-unsplash
Hình minh họa từ Unplash

 

Hôm bữa, trong nhóm văn thơ của chị em phụ nữ mí nhau, có một chị được mọi người khen ngợi vì mối tình đầu là tình cuối của chị với anh xã. Câu chuyện tình thật đẹp, anh chị yêu nhau thời thanh xuân tươi trẻ thì Miền Nam rơi vào cảnh nước mất nhà tan, anh đi “cải tạo” vì tội gia nhập nhóm “tàn quân phản động” mưu toan lật đổ chính quyền “xã hội chủ nghĩa” . Chị đi thăm người yêu, được anh tặng những chiếc vòng chiếc lược bằng nhôm mà hầu như chàng “cải tạo” nào cũng biết làm. Kỷ vật đó chị vẫn giữ đến ngày nay, anh chị vẫn sống trong hạnh phúc dạt dào, anh vẫn chải tóc cho chị như câu ước năm xưa anh khắc vào trong một chiếc lược.


Không màu mè hoa lá cành, không phô diễn, anh chị thực sự là một đôi đúng nghĩa “trăm năm hạnh phúc đến răng long đầu bạc”. Tôi có hỏi chị:

-          Chị ơi, chị hãy kể một tất xấu của anh, để em bớt... ghanh tị, được không chị?

Chị bảo, ối giời, kể ra thì nhiều lắm cưng ơi!

Đúng vậy, đời này chẳng có con người nào hoàn hảo, mà cũng chẳng có cuộc hôn nhân nào hoàn hảo, ai cũng có những điểm tốt điểm xấu, miễn sao điểm tốt nhiều hơn điểm xấu, thì coi như... hôn nhân thành công. Câu này đã có ai nói chưa nà, nếu chưa, thì coi như tôi là người... phát minh ra, nghen!

Vậy là tôi an tâm, kể chuyện tốt của anh xã mình cho bà con nghe chơi, theo đúng như lời dạy của ông bà mình “tốt khoe xấu che”. Dại gì vạch áo cho người xem lưng.

Hồi mới quen nhau, tôi nũng nịu cảnh báo trước với chàng:

-          Thú thiệt với anh, em chả biết bếp núc nấu nướng gì đâu, chỉ có tình yêu của em dành cho anh thôi. Vậy anh có chịu cưới em không?

Chàng chân thành:

-          Đối với anh, chuyện ăn uống không phải là vấn đề quan trọng trong cuộc sống . Sau 1975 cả dân Miền Nam phải ăn khoai sắn, đến khi qua trại tỵ nạn Mã Lai, cơm Cao Ủy cho gì ăn nấy, nên anh cũng quen rồi .


Nói xong, chàng cười:

-          Anh dễ nuôi lắm, thịt thà cá mắm, miễn là nấu chín, anh đều ăn được hết á!


Khi chuẩn bị cưới, bà chị Cả bên Mỹ chép cho tôi hướng dẫn các món ăn thông thường cho bữa cơm . Lúc ấy chưa có email, iphone, điện thoại cầm tay, chỉ có phone nhà, nên ngoài việc gửi tờ giấy các món ăn qua bưu điện, chị cũng phone chỉ cách nấu, dù khả năng bếp núc của chị cũng... như tôi, chỉ khác là chị đã lập gia đình từ lâu, có “kinh nghiệm” nấu nướng nhiều hơn tôi:


-          Nè, thứ hai thì rau luộc, thịt kho, thứ ba lại luộc rau kho cá, thứ tư đổi món canh bí và trứng chiên cà chua, thứ năm canh khoai tây cà rốt hầm sườn heo và món mặn là tàu hũ chiên xả, thứ sáu đùi gà cánh gà chiên ăn với rau sống dưa leo, thứ bảy tôm rim mặn và canh rau.

-          Còn chúa nhật thì sao?

 

Bà chị... bối rối:

-          Chúa nhật... kiếm cớ đi ăn ngoài nhà hàng, hoặc về nhà má chồng ăn ké, vậy là khỏe re.


Thời gian đầu, menu của bà chị là cứu cánh đắc lực của tôi, nhưng ăn hoài cũng ngán, tôi lại học hỏi bạn bè xung quanh mỗi khi đến nhà họ chơi, ghi công thức xuống cuốn sổ tay nấu ăn, nên được biết thêm vài món khác, rồi lại ngán, chưa thể moi móc đâu ra những “bài bản” mới vì “gia tài” của bà chị và tôi cũng ngang ngửa nhau rồi. (Lỗi này... tại má, ngày xưa má tôi thương yêu chiều chuộng con, bếp núc má đảm đang làm hết, tự tay lo cho chồng con những bữa ăn ngon).

Tôi chợt nhớ hồi ở trại tỵ nạn Thailand, nhóm chúng tôi thỉnh thoảng luộc trứng, rồi luộc bắp cải, dằm quả cà chua vào nồi canh rau, trứng dằm nước mắm ớt, đơn giản mà ngon thần sầu, nhất là khi bụng đói, hết sạch cả nồi cơm. Tôi liền áp dụng ngay, nhưng có thêm miếng thịt ba rọi luộc, tưởng là món ăn cứu đói dã chiến, nhưng không ngờ, khi ngoài trời tuyết rơi lạnh lẽo, bên trong nhà ăn chén cơm nóng, trứng bổ đôi và thịt luộc xắt mỏng, ngâm trong chén nước mắm cay cay đậm đà, rồi tô canh rau thơm mùi tiêu, hành ngò đang bốc khói nghi ngút, anh xã vừa ăn vừa khen tấm tắc, bảo món này... lạ mà ngon! Được lời như cởi tấm lòng, tôi cho món này vào menu thường xuyên, nhanh gọn, ngon bổ rẻ, có đủ hết. Nhằm bữa nọ, bà má chồng ghé qua chơi, khi vợ chồng tôi đang ăn tối, thấy chồng tôi thưởng thức món “lạ mà ngon” của vợ, bà trố mắt nhạc nhiên, rồi cười cười, hỏi tôi:


-          Ủa, con có bí kíp gì vậy, chớ hồi đó, có lần đi làm về trễ, trời có bão tuyết, làm biếng ghé chợ, nên về nhà má làm món này là nó biểu món gì mà kỳ cục quá, rồi vừa ăn vừa xem tivi chẳng hào hứng chút nào .

Tôi ra vẻ bí mật:

-          Ai biểu má cưng chiều ảnh quá nên ảnh hư.

Bà má chồng cũng nhẹ nhàng, hình như có chút mỉa mai, hờn mát:

-     Cưng chiều gì đâu, tại cả ngày mọi người đi học, đi làm, thì bữa cơm chiều cũng cần phải tươm tất đủ chất chớ.

Tôi ngó lơ, không lẽ khai thật với má chồng rằng tài nghệ nấu ăn của con chỉ cỡ đó, anh không ăn thì nhịn đói sao. Không cần phải nói qua lại chi cho mệt. Hờn mát là chuyện của các bà má chồng, quan tâm hay không là chuyện của các nàng dâu.

Trở lại chuyện bếp núc của tôi, theo thời gian thì cũng có tiến bộ. Khi sinh con, chúng chập chững đi học, tôi cũng chịu khó tìm tòi, làm các món đơn giản cho chúng ăn sáng, nào pancakes, nào muffins, nào biscuits, mặc dù lắm lúc cũng bị chúng chê không ngon như ngoài tiệm.

Rồi sự xuất hiện của Youtube quá tuyệt vời, giúp đỡ cho rất nhiều cô nhiều bà nội trợ tay ngang được mày mò làm nhiều món đòi hỏi sự khéo léo, phức tạp, công phu, trong đó có tôi và bà chị bên Mỹ kia. Hai chị em cùng... mừng húm.

Nhưng dẫu sao, có bột mới gột được hồ, có tích mới dịch được tuồng, nên một người vụng về, không có khiếu bếp núc như tôi, thì Youtube chẳng phải là cây đũa thần hóa phép, cho tôi có đôi hia vạn dặm, bỗng chốc trở thành đầu bếp giỏi giang được. Ngoài vài món may mắn, như phở, hủ tíu, bún riêu, nấu mãi cũng thành quen tay, khá lên chút đỉnh, còn cơ bản, các món khác, kể cả các món ăn cơm thường ngày, tôi vẫn chỉ dừng lại ở mức tàm tạm chấp nhận được, hên xui, ngon dở tùy hứng và tùy tâm trạng mỗi ngày.

Bởi thế, có lúc có một món nào đó, chính tôi khi ăn cũng công nhận là... không hề ngon. Chờ cả nhà ăn xong, thức ăn còn dư bỏ thì thương vương thì tội, buổi tối rình khi anh xã đã lên lầu vào phòng đi ngủ, tôi âm thầm ở dưới bếp pack lunch bag cho chàng mang đi làm, và dĩ nhiên cũng pack cho tôi nữa. Ăn tại giờ break ở chỗ làm thường là lúc bụng đã đói, nên chắc chắn sẽ không bị bỏ bứa hoặc nghe lời than vãn. Để cho chàng khỏi... thất vọng khi mở hộp lunch ra ăn, tôi đính kèm theo một sticky note có viết vài chữ rất ngọt ngào: “Tụi mình cùng nhau... thanh toán món này cho hết nghen anh! Love!” kèm theo khuôn mặt cười. Lần đầu trôi qua trót lọt, những lần sau như thế, khi cần “giải quyết” những thức ăn tồn đọng, tôi lại pack lunch cho chàng, không cần viết dài dòng trên note nữa, mà chỉ đơn giản một dấu hiệu mặt cười, có khi còn bonus thêm chữ “enjoy” để trong ngoặc kép hẳn hoi.

Chị bạn làm chung từng nói với tôi:

-          Em may mắn có chồng dễ ăn dễ tính, gặp chồng chị thì mơ đi nhé!

Tôi biết chồng chị, vừa gia trưởng vừa khó tính. Vợ nấu ăn giỏi, món Bún Bò Huế ngon có tiếng, mà bữa nào chị lỡ tay luộc bún mềm quá hay chưa đủ độ mềm như ý anh thì nhất quyết không đụng đũa, vợ phải đi luộc rổ bún khác. Có lẽ tại chị nấu ăn ngon quá nên chồng chị cũng đòi hỏi cao. Với tôi, chồng biết điều, chấp nhận “số phận” là thế.

Giờ đây, bước vào tuổi trung niên sồn sồn, tôi hạn chế làm các món thịt đỏ, mà ưu ái thịt gà. Hôm tuần rồi nhân dịp Costco bán gà on sale, tôi khuân về một thùng, cả tuần quanh quẩn gà kho xả, gà kho gừng, cháo gà, canh gà hầm rau củ, gà nướng, gà chiên ... Cuối cùng chồng tôi cũng phải e dè, lên tiếng:

-          Em à, em ăn gà hoài, em có ngán chưa? 

Tôi... thông cảm:

-     Ngán rồi, bởi vậy bữa nay cuối tuần em đã mua một ký bánh cuốn, kèm chả lụa, bánh cống cho chúng ta đổi món nè.

Rồi tôi tiếp luôn:

-          Thôi từ nay, anh và em ráng kiêng khem mấy ngày trong tuần, để weekend sẽ được đi ăn tiệm, hoặc order về nhà, nghen anh!?

Dĩ nhiên là chàng gật đầu chấp thuận không có ý kiến ý cò gì khác. Ngày cuối tuần Fathers Day sắp tới, tôi sẽ đãi chàng và cả nhà một bữa tại nhà hàng “Steak” nổi tiếng của thành phố, để cám ơn chàng, ba của các con tôi, suốt 30 năm qua, không những đã chịu đựng tôi với tính khí “sáng nắng chiều mưa”, mà còn chịu đựng cả khả năng nội trợ cũng... lên xuống thất thường không kém gì cái tính nết “ba rọi” kia của tôi.

Chàng đã giữ đúng lời hứa như thuở ban đầu, chuyện ăn uống không quan trọng, em nấu gì, miễn là nấu chín, anh cũng thấy... ngon.

Edmonton Fathers Day 2024,

KIM LOAN

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.