Hôm nay,  

Và khi về ngồi dưới những gốc nho biển

06/07/202407:12:00(Xem: 2955)

TYT_DVTP_PreOrderĐường về thủy phủ, tiểu thuyết Trịnh Y Thư, Văn Học Press xuất bản, 2024.

 

Tiểu thuyết Đường về thủy phủ của Trịnh Y Thư là một bức vẽ, mang nhiều đường nét ấn tượng, về sự thất lạc của con người trong chiến tranh. Nói như thế người đọc vẫn có thể không rõ lắm, và hiểu rằng, dựa trên lịch sử, bám vào lịch sử, đây là một trình bày với những nét cọ, cho dù có những chỗ mạnh bạo, chỗ lơi tay, với những bôi xoá, những bệt màu đậm nhạt của người vẽ, nhưng về tổng thể vẫn là một sự trình bày ít nhiều mang tính “hiện thực”, về chiến tranh, về lịch sử. Về những khổ đau, oan khiên của con người. Về sự tan tác của những mảnh đời trong vòng lửa đỏ của cuộc chiến, trong cái mù loà của lịch sử vốn đưa dẫn bước chân của chính nó. Và tất cả được bao phủ bởi cái hơi thở đầy thán khí độc hại của lửa, khói, của máu và nước mắt.
    Thật sự, ở một mức độ nào đó, người đi vào quyển sách đều có thể nhận ra ít nhiều, ở chỗ này hay chỗ khác, qua những góc quay khác nhau, với những mức độ đậm nhạt khác nhau, tất cả các dự cảm vừa được trình bày ở trên. Nhưng nếu nghĩ đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, hay một tiểu thuyết chiến tranh, chúng ta sẽ ngộ nhận tác giả. Tiểu thuyết này, với tính chất và cái nhìn đặc thù của tác giả, không hề có mục đích ấy. Lịch sử có ở đó, cùng với khuôn mặt kinh hoàng, gian trá, điên đảo, và tàn bạo của chiến tranh. Nhưng đây là một cuốn tiểu thuyết chỉ lấy lịch sử làm một cái nền với những gam màu rất mờ nhạt, và, dĩ nhiên, nổi bật lên vẫn là một màu đỏ nhờ nhờ, điên quái, bất tín và bất-khả-tín, khi thì chỉ ươn ướt, chỗ lại đặc quánh những vết thương làm mủ của lịch sử.
    Trong trí tưởng tượng (và hẳn cũng là trong nỗi đớn đau) của mình, tác giả Trịnh Y Thư đã nhìn lịch sử chiến tranh Việt Nam trong suốt ba mươi năm giữa thế kỷ XX, cùng với những hậu chấn buồn đau và xót xa của nó, với một cái nhìn của một kẻ sáng tạo. Với những “ấn tượng” riêng của mình. Tác giả nhìn vào cái bối cảnh của cuộc chiến ấy, và thấy ra bao điều đau xót. Tính chất hư cấu cho phép của thể loại, dù sao, không đẩy tác giả vào sự phá tác tuỳ tiện. Ông vẽ ra những chi tiết một phần từ ký ức riêng của tuổi thơ, một phần qua sự học hỏi, tìm hiểu, và một phần khác, qua ký ức tập thể. Và nhất là, trong cái nhìn của tôi, qua vô thức tập thể. Cái vô thức ấy, có thể được gọi như thế này chăng, là một “vô thức quỷ ám”. Có thể cái vô thức ấy đã được chủ thể hoá, được tạo nên, được phóng ra từ những ấn tượng riêng của người viết. Nó “đúng” ở mức độ nào, và nó có lý ở những khía cạnh nào, chúng ta không dám quyết đoán. Nhưng nó, cái “vô thức tập thể” ấy, có ở đấy. Trong dạng “nguyên sinh” của nó, cái vô thức ấy làm cho chúng ta quằn quại, không yên. Nó bám vào những hình ảnh, những giấc mơ người, và nó phóng chiếu, ánh xạ, nhẩy múa điên cuồng trong ý thức ta khi con người mở mắt. Ngoài những ám ảnh luôn nắm lấy hơi thở và mọi giác quan của sự sống ấy, làm nên cái chất, cái nền của bức vẽ, mọi sự còn lại tác giả dựa vào hư cấu, vào ấn tượng, và vào sự tưởng tượng riêng của mình.
    Hư cấu của một nhà văn có thể giúp kẻ ấy sáng tạo nên những điều không hề có trong hiện thực. Nhưng những điều ấy sống trong trí óc hắn, trong các tế bào mang DNA của hắn, sống trong chữ viết, trong mắt nhìn hắn vào tấm sơ đồ của hiện thực. Và từ đó, nhà văn tạo xương thịt và thổi sức sống vào cái sáng tạo của mình. Trong tiểu thuyết này, Trịnh Y Thư vẽ nên một bức tranh khá rộng và tàn bạo, kinh khiếp về cuộc chiến ba mươi năm giữa thế kỷ XX trên đất Việt. Có máu, có lửa, có những cơn co giật, đau xé của lịch sử. Có điên đảo, gian trá, say cuồng, mê lầm, ảo tưởng, lý tưởng, thất vọng, vùi dập, oan khiên của những con người. Tuy nhiên, giữa những nét vẽ hung bạo, bóp thắt và chảy máu ấy, nhà văn lại đưa được vào đó những cảnh đẹp thiết tha, thơ mềm và say lòng của thiên nhiên, của những dáng nét quê hương:
 
Tôi bỏ Hà Nội lại sau lưng. Ôi, biết bao kỷ niệm. Tôi vừa đạp xe vừa cố nhìn lần chót những hình ảnh của Hà Nội mà chẳng biết bao giờ mới có dịp về nhìn lại. Hồ Hoàn Kiếm vẫn xanh biếc với tháp Rùa, cầu Thê Húc, đình Trấn Ba. Đường Hoàng Gai, nơi bán đèn Trung Thu mà hằng năm mẹ tôi dắt chị em tôi ra mua đèn về chơi. Trường nữ học Đồng Khánh với những tà áo bay. Rồi vườn trại Ngọc Hà với chợ hoa những ngày cận Tết […] Tôi còn nhớ cả tiếng chày chí chát của đám thợ đập vàng trên phố Hàng Bông Đệm, hay tiếng chuông leng keng, tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt của chiếc tàu điện chật cứng người mỗi ngày tôi lấy đi học hay đi chơi. Những bức tường rêu phong loang lổ, những vỉa hè, những con ngõ nhỏ như ngõ Phất Lộc với những căn nhà bé xíu thụt ra thụt vô, dây leo chằng chịt, trông rất ma quái […] Và ngõ Cấm Chỉ phố Hàng Bông gần nhà, nơi tôi hay ngồi ăn quà buổi sáng.  Cũng không thể phai mờ trong tâm trí tôi là rặng bàng khô lá, lối đi quen thuộc từ những ngày còn cắp sách đánh vần với những kỷ niệm tuổi học trò thơ dại. Rồi năm Cửa Ô, cửa nào cũng có vết  chân tôi.  Cửa  Ô Quan Chưởng với gạch ngói cổ xưa, loang lổ dấu vết thời gian. Cửa Ô Cầu Giấy với hàng phượng vỹ mùa hè đỏ ối rợp bóng hai bên đường. Cửa Ô Cầu Dền nơi thuở nhỏ tôi hay theo mẹ đi chợ Tết. Với Cửa Ô Đống Mác, đường đi Bát Tràng, thì tôi không thể quên những quả ổi ương ương chấm muối ớt ăn ngon nhớ đời. Và Cửa Ô Chợ Dừa, muốn ra đó phải đi ngang phường Dạ Lạc, phố Khâm Thiên, có thằng con trai mới lớn đỏ mặt, trống ngực đánh thình thịch mỗi lần thấy các cô gái má đỏ môi son đứng trong nhà nhìn ra cửa. Tất cả quay về tuần tự như khúc phim dĩ vãng vàng ố chiếu giọi chờn vờn trước mắt tôi.
 
Những góc quay rất đẹp về Hà Nội ngày nào làm bập bùng trong ta những ánh lửa ký ức. Ký ức thực của con người, hay ký ức về những trang văn đầy thiết tha, say đắm của những ngòi bút tài hoa từng viết về Hà Nội.
    Hay của sự nhớ về một kỷ niệm đẹp, riêng tư, làm mê lòng, trên bước đường lưu lạc của nhân vật chính trong truyện đầu, giữa khung cảnh lửa khói phủ lấp cuộc toàn quốc kháng chiến đang bùng dậy:
 
Thân thể các cô thôn nữ này toát ra một mùi vị lạ lùng, khó diễn tả bằng lời. Nó ngai ngái như mùi hoa dại, mà nồng ấm ngọt ngào chứ không chua. Cái mùi ấy quyện lấy tôi trong lúc giã gạo và lưu lại mãi trong khứu giác tôi.
 
Đẹp. Như thấp thoáng cảnh và tình trong The Dancing Girl of Izu của Yasunari Kawabata. Hay một cảnh đi thuyền trên sông:
 
Lần đầu tiên tôi được đi thuyền xuôi dòng sông mà lại đi vào ban đêm. Quả chẳng có cái thú nào bằng. Đêm trong vắt, bầu trời đầy sao lấp lánh, không một tiếng động nào ngoài tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền oàm oạp nghe như một điệu hát ru em.
 
Cảnh này làm tôi nhớ đến bài thơ chứa chan cái đẹp của Cao Bá Quát, khi, từ Thanh Đàm (đầm Thanh Liệt, huyện Thanh Trì), ông buông thuyền xuôi Nam: màu chiều đang vào tối, mây vàng bảng lảng, vòm trời thấp, mặt trời chìm xuống, chiều trên sông ngả bóng tối sầm, con thuyền lạnh lùng lướt đi trên mặt thuỷ, và lòng người như mở ra, hạnh ngộ với sóng nước, với hùng tráng ba đào. Mọi sự trong tối, như thế, bất chợt nở sáng bùng lên cái chí vạn dặm của con người:
 
Thanh Đàm thôi biệt duệ
Nhị thuỷ tiễn hành khâm
Sa khoát hoàng vân mộ
Thiên đê bạch nhật trầm
Khách châu hàn phiếm phiếm
Giang sắc vãn âm âm
Bất kiến ba đào tráng
An tri vạn lý tâm?
 
Những đoạn tả cảnh của Trịnh Y Thư, và bài thơ Thanh Trì Phiếm Châu Nam Hạ của Cao Bá Quát, trong trí nhớ còm cõi của tôi, làm cho bao cảnh ghê người, bạo liệt và “vô tâm” của cuộc chiến trước mắt tôi, khi đối diện với trang sách, được xoa dịu đi nhiều.
    Tác phẩm của Trịnh Y Thư kết hợp ba truyện vừa, không phải là một tiểu thuyết theo đúng dạng “truyền thống” của nó. Nhưng ba truyện này được viết để diễn tả cùng một chủ đề. Đó là sự thất lạc của con người trong cuộc sống, trong chiến cuộc, và rồi tiếp tục trong cái sống thoi thóp sau đó. Nói như tác giả, đó là “sự thất lạc của con người trong cuộc sống hiện đại. Thất lạc trong chiến tranh, thất lạc trong đời sống, và thất lạc cả trong cõi chết”. Ba truyện, một cách nào đó, có sự gắn kết vào nhau, qua những ý tưởng hướng về chủ đề, qua cái ánh sáng nhờ nhờ màu đỏ của cuộc chiến (trong cái nhìn của tôi), cho dù chúng cũng được đan xen đâu đó, thi thoảng, bằng những khoảng xanh trong, đẹp tươi, của lục diệp, của bầu trời, ánh nước, và của những tình cảm con người. Hơn nữa, chúng lại còn được nối kết vào nhau qua hành trạng của các nhân vật, nhất là trong hai truyện Dưới những gốc nho biểnĐường về thủy phủ.
    Hành trạng của các nhân vật đan cài vào nhau, nối tiếp nhau, xoắn xuýt vào nhau. Có khi, sự đan cài xoắn xuýt đó chỉ được tác giả cất giấu trong một dòng chữ. Nhưng cũng có khi, đó là sự xuất hiện trở lại một cách rõ rệt của các nhân vật. Họ xa cách nhau trong thời gian, và rồi tìm lại được nhau trên dòng chảy phù du của cuộc đời. Một thứ “le temps retrouvé”, của Proust. Một thứ “thời gian tìm lại được”. Cho dù sự “tìm lại được” này thấm đẫm cái thời tính của phôi pha, thấm đẫm cái chất và cái màu thời gian xanh lục của rêu rong đắp tụ, cũng như thấm đẫm, đong đầy chất và lượng khổ đau trong nó. Ba câu truyện là ba hành âm của một tổ khúc. Một tổ khúc đớn đau và tan nát. Nhưng vẫn có những ánh sáng lấp loé đâu đó.
    Những đoạn tả cảnh chết đói hết sức đau xót của người dân năm Ất Dậu, cảnh tình yêu giữa hai nhân vật ở hai phía trong cuộc chiến, và, thậm chí, cảnh những chàng trai trẻ, mới lớn, tò mò khám phá cái ham muốn trong con người mình qua việc đi xem trộm một người con gái tắm, có thể gợi cho người đọc nhớ đến những câu truyện, hay những phân cảnh, trong những tác phẩm khác của văn chương thế giới. Như cảnh cùng khốn, đau thương của những cái khổ, cái nhục, cái chết vì đói trong những tiểu thuyết của Dư Hoa, đặt trong bối cảnh đặc thù của Trung Quốc thế kỷ XX, khoảng thập niên ’50-’60. Như cuộc tình giữa cô gái Pháp, Lucille – trong thời thế chiến, thập niên ’40, khi lính Đức tràn về một thị trấn nhỏ ở Bussy (Pháp) – với viên sĩ quan người Đức, Bruno, trong Suite Française của Irène Némirovsky. Hay như cảnh tác giả cùng mấy người bạn nghịch ngợm, đang hồi tuổi lớn của mình, khám phá dục tình bằng cách rủ nhau đi xem trộm con gái tắm, trong khung cảnh xóm đêm nghèo khổ của Limerick, Ireland, qua bức tranh toàn cảnh của một đất nước Ireland còn nhiều xung đột, khoảng thập niên ’50-’60 của thế kỷ XX, trong hồi ký Angela’s Ashes của Frank McCourt. Tất cả những sự gần gũi, mang tính nhân loại này, cho thấy cái đồng dạng muôn thuở và muôn nơi của con người trên cõi thế.
    Đường về thủy  phủ, trong sự chia sẻ rất con người ấy, cho dù tất cả những cảnh, những chuyện vừa nói, trong tiểu thuyết của Trịnh Y Thư, đều mang đậm nét Việt, tâm tình Việt, cảnh thổ Việt, qua nét vẽ ấn tượng của tác giả, cho ta thấy cái khổ đau, cái rung động trong tình yêu, hay cái nghịch ngợm, tò mò của tuổi trẻ, là của con người nói chung. Của con người muôn thuở và muôn nơi. Tất cả đều phản ánh những nét nhân sinh. Từ sự đớn đau quằn quại, đến cái tế vi, những ngã quặt bất ngờ và mong manh trong những mối tơ của đời sống, của tình cảm con người, cho đến cái tự nhiên, phải khởi phát như những đọt non bùng thức trong nhịp sống của muôn loài. Của nhân loại giữa “cõi người ta”.
    Toàn bộ câu truyện, kết hợp bởi ba hành âm của một tổ khúc như đã nói, được viết bằng một cái nhìn tỉnh táo của tác giả, với kỹ thuật pha trộn giữa metafiction – siêu hư cấu, cho thấy sự cố tình để lộ việc thâm nhập của tác giả vào câu truyện, sự đan xen tinh quái của chính tác giả trong đó, nhắc nhở người đọc về sự có mặt của người viết, với những chỗ tác giả xưng “tôi” chen ngang vào mạch kể, để nhấn mạnh đến tính hư cấu của truyện – và cách viết theo phong cách hiện thực huyền ảo. Ở những không gian khác, chẳng hạn như trong phần đầu truyện thứ ba của quyển sách, hình ảnh, ngôn ngữ ở đây lại rất hiện thực. Nhân vật nữ chính, ở thời điểm này, có chút gì “tâm thần”. Có chút gì của Haruki Murakami. Thế nhưng, nó lại phản ánh thật sát cái “gốc rễ” của hai nhân vật chính.  Cái tâm lý. Cái bối cảnh xã hội, lịch sử mà, từ đó, họ được sinh ra và lớn lên.
    Thế nhưng, dù ý thức, qua sự nhắc nhở của tác giả, rằng đây là một câu truyện hư cấu, người đọc vẫn rơi vào khung cảnh và sự cuốn hút của những câu chuyện, những tình tiết, vào cái toàn cảnh sinh động của cuộc chiến, mà tác giả khéo léo tạo nên. Pha trộn một vài nét triết lý và thơ mộng xuyên suốt cuốn truyện, nhà văn, trong khi lôi kéo người đọc vào những suy nghĩ sâu xa về cái bi khốc của chiến tranh, của những cuộc chém giết tàn bạo, của ý nghĩa về phận người, của các lý tưởng-ảo tưởng-huyễn tưởng-mộng tưởng chen kẽ lẫn lộn, xâm chiếm cái sống cái chết của con người, vẫn đẩy người đọc đối diện với cái kinh hoàng của cuộc chiến trước mắt, của một lịch sử sôi động. Và của những gì xảy ra sau đó. Cuốn sách vẽ ra được một toàn cảnh với các chi tiết, tạo được một ấn tượng về cuộc chiến, về không gian và cuộc sống xã hội, lịch sử của các giai đoạn gối tiếp nhau.  Và về cuộc bể dâu mà con người phải đối mặt, với những quyết định sai lầm của chính nó. Hay với cái “quyết định”, cái hướng đi mù loà, xiên xẹo và xộc xệch của lịch sử.
    Nhưng, ở phần cuối của cuốn sách, nơi truyện thứ ba của tổ khúc đớn đau này, nhân vật nữ chính, trở về ngồi dưới những gốc nho biển, nơi Bố và Mẹ của cô trước đây vẫn hay ngồi. Và cô đã nhìn thấy gì?
 
Trước mặt, hoàng hôn vàng đỏ vỗ về mặt biển nhấp nhô sóng. Những cánh hải âu chao liệng. Một đàn cốc biển bay thành hàng một về phía chân trời xa xa, nơi có những hòn đảo lờ mờ nổi trên mặt nước. Những hình ảnh này, có lẽ mẹ tôi đã trông thấy y như tôi thấy bây giờ. Ý nghĩ này làm tôi ấm lòng. 
 
Cuốn truyện khép lại như thế, với một nốt nhạc dịu, cho thấy nhân vật đã tìm lại được một chốn bình yên để trú ẩn, để quay về, như mục đích của truyện mà nhà văn đã mong ước và hướng tới: Tiểu thuyết, cái nẻo vào lạ lùng ấy, có thể “cung cấp một bối cảnh văn học phong phú và đa dạng. Nó giúp xóa nhòa đường biên của tranh chấp, hận thù. Nó vuốt ve những khổ ải, đớn đau”. Đúng như thế, cuốn tiểu thuyết này, với lịch sử được dùng làm một phông nền qua những gam mầu rất mờ nhạt, và ước muốn của nó, theo tôi thấy, là hướng về phía ánh sáng, về sự yên bình, về sự xoa dịu, qua lòng hiểu biết và niềm tin vào cái thiện, cái tốt.
    Chia sẻ mong ước ấy của tác giả, nhà văn Trịnh Y Thư, tôi hy vọng người đọc tìm được cái ánh sáng và niềm tin ấy nơi tiểu thuyết nói chung. Và nơi quyển sách này, nói riêng. Nỗ lực của tác giả, tôi tin, người đọc có thể nhìn thấy, luôn ánh lên đâu đó, trong suốt hành trình đi vào và đi ra khỏi quyển sách của mình. 

 

(Tựa, cho Đường về thủy phủ của Trịnh Y Thư).

 

– Bùi Vĩnh Phúc

Tustin Ranch, Calif.

Tháng Năm, 2024, trong mưa Xuân.

 

@@@

 

Sách có bán trên BARNES & NOBLE

326 trang, bìa cứng, 6” x  9”, giá bán: US$25.00

Xin bấm vào đường dẫn sau:

 

Duong ve thuy phu by Trinh Y. Thu, Hardcover | Barnes & Noble® (barnesandnoble.com)

 

Từ tìm kiếm: duong ve thuy phu, trinh y thu

 

Hoặc liên lạc với tác giả / NXB qua hai địa chỉ email sau để mua sách có chữ ký của tác giả:

 

[email protected]

[email protected]

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác...
Hans Fallada, tên thật là Rudolf Ditzen, người đã sống giữa những biến động của nước Đức — từ sự sụp đổ của Đế chế, đến cơn bão của Thế chiến thứ nhất, rồi bước vào cơn ác mộng của Đệ tam đế chế. Trước chiến tranh, Fallada là một nhà văn nổi tiếng, tác giả của Little Man, What Now?, được Hollywood dựng thành phim. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, ông bị cấm xuất bản, bị Gestapo rình rập, và bị ép phải viết những tác phẩm phục vụ tuyên truyền. Tưởng chừng như bị nghiền nát giữa bạo lực và sợ hãi, ông lại tìm thấy trong ngục tối một đường sống của tâm hồn – viết. Trong ngục tối, ông bí mật viết nên ba cuốn tiểu thuyết mã hóa, và sau chiến tranh, vừa thoát xác một người sống sót, ông viết cuốn cuối cùng: Mỗi người đều chết một mình (Every Man Dies Alone).
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt trong hành trình của Ocean Vuong (1). Nhà văn, nhà thơ gốc Việt nầy đã trở thành một trong những khuôn mặt quan trọng nhất của văn chương Mỹ đương đại. Không còn là “hiện tượng thơ”, không còn được biết đến qua nỗi đau di dân, không còn đứng trong hào quang của Night Sky with Exit Wounds hay thành công bất ngờ của On Earth We’re Briefly Gorgeous trước đây, Ocean Vuong năm 2025 là một nhà văn đang mở ra biên giới mới của chính mình với The Emperor of Gladness, NXB Penguin Press, New York, 2025)...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.