Hôm nay,  

Nơi Sông Về Với Biển

06/07/202412:50:00(Xem: 3869)
nơi sông về với biển
Hình của tác giả.
 
 
Căn nhà mẹ tôi nằm dọc theo con sông Bình Hòa Phước. Có lẽ người ta lấy tên làng gọi tên cho khúc sông nhỏ chảy xuyên qua cù lao của huyện. Để về Bình Hòa Phước có thể đón đò máy từ Cái Bè hay bến đò từ chợ Vĩnh Long. Thường thì tôi thích đi ngõ Vĩnh Long hơn, vì nếu trễ đò còn có thể đón xe lam qua bắc Cổ Chiên, rồi theo lộ Thầy Cai đi bộ về Bình Hòa Phước. Chớ trễ đò ở Cái Bè là phải bao đò hoặc ngủ qua đêm chờ chuyến đò ngày hôm sau.
Nối liền với sàn nước bên hông nhà mẹ tôi là cây cầu dừa bắt ra mé sông. Mỗi năm vào mùa nước nổi, khoảng sau tết Trung Thu, là mẹ tôi chuẩn bị giăng đám chà để giữ lục bình và cá chạy. Thường thì bà mướn người trong làng cắm hàng loạt những cây bần, cây tràm khô chận quanh, bên trong là những đám lục bình dạt theo dọc bờ. Nên suốt mùa này, bên hông nhà mẹ tôi lúc nào cũng có đám lục bình sinh sống, nhảy bụi đơm bông. Rất nhiều loại cá thích sống, sinh sản dưới những cụm lục bình, nhất là lá mè dinh, cá rô phi, cá linh... trong mùa nước nổi. Đây cũng chính là thời gian lục bình trổ nhiều hoa, rất đẹp. Hoa lục bình màu tim tím nhạt, mọc thành chùm chung quanh chồi hoa vươn lên cao. Nhiều buổi chiều nước lớn, tôi thường ngồi ngẩn ngơ nhìn từng đám hoa lục bình tím nhạt trôi mênh mông trên dòng sông rộng trước nhà. Tôi đã biết mơ mộng, biết bồn chồn... thương nhớ vu vơ từ những buổi chiều đầy hoa tím.

Năm đó tôi học đệ nhất (lớp 12) trường trung học ở Sài Gòn, chuẩn bị thi tú tài hai cuối năm. Bấy giờ trai gái chưa học chung, trường trung học công lập nam và nữ tách riêng, cách nhau cả mấy con đường phố lớn. Nên những buổi sáng đi học hay những buổi chiều tan trường, tôi thường theo đám bạn đạp xe sang trường con gái để nhìn, để lẽo đẽo theo sau và để làm quen. Đám bạn đã có đứa thư tình qua lại, vậy mà tôi chẳng tìm được một “bóng hình” để thương để nhớ. Có lẽ tâm trí tôi không còn khoảng trống nào ngoài những đám lục bình và người con gái phía bên kia bờ sông nhỏ. Lệ, Nguyễn Thị Lệ là tên của chị, vừa dọn về làng mấy tháng nay. Cha tử trận, mẹ chị đem đàn con sáu đứa về quê ngoại ở Bình Hòa Phước sinh sống. Chị là con gái lớn hơn tôi ba tuổi, làm thư ký cho hội đồng hành chánh xã. Lần đầu tiên gặp chị Lệ, tôi lúng túng trước dáng dấp thướt tha, khuôn mặt thanh tú và nụ cười thật đẹp. Chừng như đôi mắt chị lúc nào cũng ươm ướt, long lanh nên tên chị là Lệ? Cái tên đẹp mà buồn buồn làm sao. Trước mặt chị, tôi chỉ là một “cậu em” đang tập làm người lớn. Đám thanh niên, công chức, quân nhân trong xã, huyện theo đuổi chị Lệ không đếm hết. Thế là không đợi đến hè mà những cuối tuần, ngày lễ nghỉ học là tôi vội vã ra bến xe đò về thăm nhà không lời giải thích với đám bạn của mình. Làng nhỏ nên quen nhau dễ dàng trên cùng một chuyến đò, tôi về thăm nhà còn chị thì đi chợ tỉnh. Điều làm tôi xúc động, bâng khuâng là mỗi lần gặp và nói chuyện, chị đều xưng tên mà không là chị. “Hôm nào Hoàng ghé qua nhà Lệ chơi nghen”, chị cười cười nói.
 
Nhiều đêm, rất nhiều đêm tôi trằn trọc trong căn nhà trọ nằm thương nhớ hình bóng chị khôn nguôi. Nhớ dáng thon cao của chị Lệ trong chiếc áo dài màu xanh biển nhạt. Mẹ nói con gái cao “lén”, nên tôi thấy chị rất người lớn và cao hơn tôi nhiều. Có lần nghỉ hè chị rủ tôi đi Chợ Lách của huyện. Theo con đường làng dọc bờ sông, chị chợt nắm tay tôi nói: “Hoàng làm con trai sướng thiệt. Không như Lệ là thân con gái, thua thiệt trăm đường”. Ngừng một chút rồi chị khẽ thở dài: “Thân phận con gái giống như những cụm hoa lục bình đó vậy”. Chị đưa tay chỉ những đám lục bình hoa tim tím nhạt, đang trôi mênh mông trên dòng sông phía trước. Lúc đó tôi chưa hiểu chị nói gì nhưng thấy thương chị vô cùng. Bàn tay tôi đang trong bàn tay mềm ấm của chị, trái tim tôi chừng đập nhanh và mạnh đến chị có thể nghe thấy. Tôi muốn mình mãi sẽ không hiểu để được nghe tiếng chị nói, được nghe chị giải thích không thôi. Bỗng chị lắc lắc bàn tay tôi, hỏi: “Hoàng có biết những cụm lục bình này sẽ trôi về đâu hông?”. Bất ngờ, tôi lúng túng, choáng ngột không nói được lời nào. “Nếu không dạt tấp được một bến bờ, những cụm lục bình này sẽ héo chết, nơi sông về với biển”, tiếng chị chầm chậm, nhẹ thênh. “Sao lục bình lại héo chết nơi sông về với biển?” tôi hỏi chỉ để hỏi. “Sông nước ngọt, biển nước mặn. Lục bình chỉ sống trên sông và sẽ héo chết khi trôi về biển mặn, không phải môi trường sống của nó”, giọng chị thoáng buồn. Buổi trưa hôm đó gió sông nhè nhe, thổi hương vài sợi tóc chị bám trên mắt mũi tôi. Chừng như tôi định nói điều gì đó, nhưng lại im lặng bước bâng quơ theo dọc một ngày đường đan trong tay chị.
 
Đêm ở trọ thành phố dài và mênh mông, tôi nghiêng mặt vào bàn tay có hơi hám người.  Lòng rạo rực khi đôi môi màu hồng nhạt của chị thoáng hiện về. Tôi trằn trọc và mong đêm qua mau để ngày sẽ tới. Để tuần lễ học thoáng qua, để tôi gói trọn hành lý nhớ thương trên chuyến đò cuối tuần về gặp chị. Và hình như chị cũng biết điều này, nên hai ngày cuối tuần chị thường xuyên ra đứng phía bên kia chiếc cầu vẫy tay và cười với tôi. Tuần nào có báo Tuổi Ngọc hoặc tạp chí Văn mới là tôi đem qua cho chị.  Những hôm đó, chị Lệ thường rủ tôi ra phía sau nhà, ngồi nói chuyện văn thơ và cả chuyện bâng quơ. Tôi chỉ nghe và nhìn ngắm chị thì nhiều hơn là nói. Có hôm tôi và chị ngồi yên lặng, không nói năng gì chỉ nhìn con nước trôi lững lờ từng cụm lục bình về cuối khúc sông con. Bên chị lúc nào cũng có một mùi thơm thoang thoảng. Mùi thơm tương tư của con gái. Mùi thơm của ngàn trùng nhớ thương, như những cơn gió mùa trở ngọn trong đêm mùa nước nổi. Đôi khi chị chợt quay qua để bắt gặp đôi mắt tôi đang nhìn trộm. Tôi và chị nhìn nhau thật lâu, thật lâu đủ để tôi thấy từng sóng nước long lanh trong ánh mắt chị, chừng như có bóng hình tôi đang chìm đắm, chơi vơi.


Đó có phải là tình yêu? Tôi không biết. Nhưng tôi biết chắc đó là tình cảm của tôi dành cho chị. Cả một năm học, cả một mùa thi. Có những lần mới về tuần trước, cuối tuần sau tôi lại mượn tiền thắng bạn để chạy về thăm nhà. Để buổi chiều, tình cờ bên kia sông chị nhìn thấy tôi ngạc nhiên rổi nở nụ cười thật tươi với cả đôi mắt... Mẹ và bà nội đã nhận ra những bất thường của tôi, hỏi loanh quanh. Tôi cũng tìm nhiều lời bịa đặt vu vơ cho qua chuyện. Một lần bà nội tôi chép miệng: “Thời buổi này đẹp như con Lệ, không biết là may hay rủi?”. Nhà chị nghèo, mẹ góa con côi nhưng khách ra vào tấp nập. Có hôm tôi gặp chị và người đàn ông ngồi trong một quán ăn chợ huyện. Chị vẫy tay chào gọi nhưng tôi cứ đi thẳng, làm ngơ. Trở lại Sài Gòn tôi buồn vô cùng và đã không về nhà mấy cuối tuần sau đó. Tôi giận chị hay tôi giận chính mình? Dù thế nào tôi cũng chỉ giận vu vơ và vô lý. Nhưng khi gặp lại, nụ cười và ánh mắt chị tan biến mọi “vô lý” của tôi. Lại hạnh phúc, lại vô tư bên mùi hương chanh thoang thoảng từ tóc chị. Thời gian cứ vậy mà trôi, theo từng con nước bên dòng sông nhỏ in hình bóng chị êm đềm, lặng lẽ.
 
*** *** *** ***
 
Mùa hè quê tôi không có hoa phượng rơi, mà bắt đầu một mùa nước nổi. Nước lên cao, mênh mông ngập khắp cánh đồng và cả khoảng sân nhà mẹ. Những cơn gió trở mùa mát dịu dàng bao đêm dài mộng tưởng. Ngày sẽ lên, đời ập tới cho dù chúng ta có chờ đợi hay lãng quên. Mẹ tôi báo tin, “Tháng tới là đám cưới con Lệ. Cũng mừng cho con nhỏ, gia đình chồng giàu có. Chỉ tội là nó phải theo chồng đi xa”. Tôi nghe tin, thấy lòng trống trải vô cùng. Một khoảng trống mênh mông, cứ tràn ngập mỗi ngày một lớn. Tôi biết mình đã yêu chị thiết tha... Một buổi tối cuối tuần, có đoàn hát về huyện, mọi người háo hức đi coi. Trừ tôi và chị.

Ngọn đèn dầu trên bàn soi bóng chị đổ dài trên vách. Khuôn mặt chị thật gần, để tôi có thể nghe rõ từng hơi thở nhẹ, ngập ngừng của chị. Đôi mắt chị thỉnh thoảng nhìn tôi, rồi nhìn vào ngọn đèn bấc khâu đêm, khe khẽ thở dài.
- "Đừng chê trách, ghét bỏ Lệ nghen Hoàng! Một ngày, Hoàng sẽ hiểu những gì Lệ muốn nói..."

Giọng nói chị hụt hẫng, nghẹn lời. Bên ngoài, từng cơn gió hắt hiu thổi vào, mang theo chút hơi sương lạnh từ con sông nhỏ trước nhà. Đêm chìm sâu, lặng lẽ. Giữa tiếng côn trùng nỉ non, xa vắng:
- "Rồi một ngày, Hoàng sẽ quên Lệ... Hoàng sẽ quên cái làng bé nhỏ nầy và quên cả đêm nay. Nhưng Lệ sẽ không bao giờ..."

Tiếng nói chị mờ đi. Bàn tay tôi đã nằm gọn trong những ngón tay thon dài của chị lúc nào không hay. Tôi muốn nói thật nhiều, nhưng mọi ngôn ngữ chừng như thừa thãi, vô dụng. Khuôn mặt đẹp não nùng của chị làm đong đặc khoảng không gian nhỏ bé chung quanh.  Tôi thoáng nghe hơi thở chị thật gần. Thật gần để bất chợt, bờ môi nhỏ, mềm mại của chị đã gắn chặt môi tôi hốt hoảng, dại khờ. Thời gian lịm chết, ngừng trôi. Không gian mù lòa, tan vỡ. Nụ hôn đầu đời của tôi và mùi hương da thịt con gái. Bờ môi tôi ngây ngất, tham lam. Thân thể ấm áp, mềm mại của chị rung nhè nhẹ trong vòng tay tôi cuống quít. Đêm chìm sâu, khuất lấp...
              - “Hoàng ngừng chút đi, Lệ thở không được…”, chị khẽ kéo mặt tôi ra. Ánh mắt chị nhìn thiết tha, vời vợi. Không hiểu sao tôi lại cảm thấy buồn. Nỗi buồn như chứa chan ngay trong nụ hôn dài ngây ngất. Chợt như số phận mỗi con người tựa hạt bụi bay bơ vơ trong sa mạc đời vô tận, hạt muối nhỏ nhoi tan lẫn giữa lòng biển rộng bao la. “Đừng quên Lệ, đừng quên đêm nay và ngôi làng nhỏ bé này, nghen Hoàng…”. Tôi cúi mặt, tránh ánh mắt chị, hỏi nhỏ: “Rồi ngày mai... mai này chị sẽ về đâu?”. Chị nâng khuôn mặt hôn nhanh bờ môi tôi, nói thật chậm, mơ hồ: “Mai này... mai này, Hoàng còn nhớ không? Lệ sẽ như những cụm hoa lục bình trôi đến nơi sông về với biển...”!
 
*****  *****  *****
 
Nhiều năm tháng trôi qua, hơn bốn mươi năm thoáng chốc. Người đàn ông mái tóc bạc màu, đứng lặng lẽ nhìn con sông nhỏ bơ vơ hòa vào lòng biển rộng. Nơi có chị, nơi tôi đã tìm về. Nơi tôi tận mắt nhìn thấy những cụm lục bình xơ xác, trôi quẩn quanh chết khô trước biển đời tay hẹp. Và tôi đã hiểu, hiểu lời chị, hiểu bờ môi chị trao đêm hôm đó. Sự mất mát trong tình yêu là điều có được lớn nhất của đời này... Tôi đã già theo năm tháng, nhưng tình yêu và hình ảnh chị vẫn tuổi đôi mươi. Tôi đi loanh quanh trong khu chợ huyện, nơi cuối nhánh sông dài. Những khu phố mới xây sầm quất, cao tầng chen lẫn với những con đường nhỏ, uốn quanh dọc ven bờ. Nhìn đâu tôi cũng thấy hình bóng chị. Đôi mắt chị nhắn nhủ tôi hãy nhìn đời độ lượng. Đôi môi nhỏ, phơn phớt hồng, gửi tôi niềm tin yêu thắm mãi không nguôi. Nụ hôn đầu của chị dạy tôi tiếng nói yêu người, hun đút trong trái tim tôi tình yêu đời không dứt... Những năm tháng đối đầu với bao khổ đau, hệ lụy tôi vẫn giữ trên môi tình yêu của chị thiết tha. Chị đang ở đâu, có nhớ lời hẹn ước? Có còn nhớ đến tôi, nhớ con sông nhỏ quê nhà?

Một lần, chị đã đến với đời nầy hệ lụy cưu mang. Một đời, chị đã để lại trong tôi một nhánh sông, một nhánh sông dài cuối ngõ. Nhánh sông tôi đã qua bao bến bờ chờ đợi, lướt trôi qua bao nhiêu khúc sông bên lỡ bên bồi. Trên dòng cạn mai nầy hay trong tiếng chim gọi chiều nước lớn, tôi vẫn nhớ thương chị mãi ở một nơi sông về với biển..!
 
Durham, North Carolina
Nguyễn Vĩnh Long

Ý kiến bạn đọc
07/07/202412:34:41
Khách
Đọc mà mê! Mỗi câu văn, mỗi ý văn là những hạt văn chương lóng lánh. Cám ơn tác giả. Và Việt Báo.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.