Hôm nay,  

Nhà Có Hoa Ngâu Trắng

04/10/202400:00:00(Xem: 3200)
   
Hoa Ngau Trang       
 
1. 
Qua sự giới thiệu của phụ huynh học sinh, chiều nay tôi có thêm học trò mới. Tuy tin tưởng vào người giới thiệu, nhưng tôi cũng có sự dè dặt thường lệ. Đây không phải là lớp dạy thêm bình thường, mà là lớp dạy kèm “Anh văn chui” tại nhà. Nếu bị bắt “tại trận”, tôi có thể bị đuổi việc (nhẹ) hoặc cả vào trại tù "miệt thứ" dài hạn như chơi. Tuy rất nguy hiểm, nhưng được sự “bảo mật” của học trò lẫn phụ huynh và nhất là khoản tiền thù lao rất hậu. Lương giáo viên cấp 3 lúc đó (1978-1979) mỗi tháng $70 đồng cộng nhu yếu phẩm, thì mỗi học sinh "dạy thêm" tôi nhận được $80/ tháng. Chỉ cần ba học trò là mỗi tháng tôi có thêm đến $240 đồng. Đối với giáo viên lúc đó không phải nhỏ! Cà phê cà pháo, cơm hàng cháo chợ cuối tháng vẫn dư tiền bỏ ống. Phần nữa, học trò lớp “Anh văn chui” của tôi thông thường chỉ vài ba tháng là “ra đi”, nên cũng thường xuyên thay đổi. Nhớ lại cũng may, trời thương kẻ “khù khờ”, thời gian ở Sài Gòn mấy “nàng” kêu đâu thì tôi làm theo đó. Có lần, cô bạn Lê Thị Từ Dung rũ rê: “Em một mình đi học hội Việt-Mỹ buồn muốn chết. Anh đi theo học với em cho vui!”. Nghe đi học với người đẹp “cho vui”, là tôi gật đầu không cần suy nghĩ. Sau hơn nửa năm theo “con gái” học Anh văn, hội Việt-Mỹ bắt đầu chương trình chiếu phim không phụ đề cho học sinh xem nhằm thực hành khả năng nghe Anh ngữ. “Love Story” là phim gây sóng gió Sài Gòn lúc bấy giờ. Dựa vào cuốn tiểu thuyết cùng tên “Love Story” của Erich Segal, với hai diễn viên xuất sắc Ali MacGraw và Ryan O’Neal. Tôi đã đọc nguyên bản cuốn tiểu thuyết này, chẳng thấy gì hay ho về mặt văn chương lẫn nội dung tác phẩm. Thì chung chung cũng không khác gì tiểu thuyết bà Tùng Long của Việt Nam mình trên các nhật báo Sài Gòn. Nhưng với bàn tay “phù thủy” của đạo diễn Arthur Hiller và nhất là bài hòa tấu “Theme from Love Story” của Francis Lai, đã đưa “Love Story” lên đỉnh cao phim trữ tình của mọi thời đại. Lần đầu, sau khi coi phim xong Từ Dung hỏi: “Anh hiểu được bao nhiêu phần trăm truyện phim?”. “Chừng 40%”. “Không được. Sau hơn nửa năm nay, mà anh chỉ hiểu được 40% thôi sao? Phải ít nhất là 60% trở lên mới được”. Thế là nàng bắt tôi phải đi xem lại, lần này với nàng bên cạnh, không hiểu là phải hỏi ngay. Từ Dung rất giỏi Anh ngữ, nhất là nghe và nói. Tôi thì thuộc loại “từ chương”, đọc và viết rất khá, nhưng nghe và nói tiếng Anh còn dưới trung bình. Xem phim phần lớn là học viên hội Việt-Mỹ, nên không khí thật im lặng, mọi người tập trung nghe phần đối thoại của nhân vật. Mỗi lần không hiểu, tôi phải khều tay và nói thì thầm vào tai Từ Dung. Rồi khều tay thành nắm chặc, thì thầm bổng chốc chẳng nói được câu nào. Nụ hôn bất chợt, vụng trộm bao giờ cũng ngon nhất, suốt đời khó quên. Lần đó tôi hiểu câu truyện phim chắc không quá 20%. Lỗi tại ai cũng hổng biết?
 
Nghĩ ngợi lan man, tôi đã qua bên kia chân cầu Rạch Sỏi. Con ngõ đường đá khá rộng,  nằm đối diện phía bên kia lối rẽ vào chợ Giữa. Càng vô sâu những căn nhà càng thưa hơn và có được khoảng sân vườn phía trước. Theo đúng lời chỉ dẫn, tôi dừng lại trước căn nhà ngói nhỏ khang trang, cửa sổ sơn xanh và hàng cây cau kiểng dọc bờ đường. Đón tôi là người đàn ông trung niên, tóc hớt cao khuôn mặt khắc khổ. “Thầy Hoàng phải hông?”. “Dạ, chào chú Phước”. “Thầy Hoàng... còn trẻ quá! Thầy vô nhà...”. Trong nhà vắng lặng chừng như không có ai. Chẳng lẽ người học trò mới của tôi hôm nay là chú Phước? “Thiệt tình xin lỗi thầy Hoàng, tui phải làm như dzầy nghe. Hai đứa cháu tui học, chớ hổng phải tui đâu!”, chú Phước giọng ngại ngùng, “Thầy Hoàng theo tui, nhà tụi nó sát sau hè nhà tui”. Đúng cái nghĩa dạy “chui” mà. Tôi đã dè dặt, người học “chui” đôi khi còn dè dặt hơn. Theo chú Phước đi vòng phía sau, băng qua bờ rào nhà bên cạnh. Căn nhà vách ván, hai gian nối nhau bằng lối đi lót những miếng gạch vuông màu nâu sẫm. Mùi thơm nhè nhẹ thật quen, dễ chịu thoáng ra từ mấy chùm hoa màu trắng nhỏ phía trước nhà. Càng đến gần mùi thơm càng ngào ngạt. “Cây hoa gì mà đẹp và thơm vậy chú?”. “Hoa ngâu trắng đó thầy”. Hoa ngâu trắng, thảo nào mùi hương quen quen và ngọt dịu đến như vậy. Những cây ngâu được tỉa gọn gàng, không cao và đầy những chùm hoa trắng nhỏ bọc quanh. Tôi đã nghe qua và uống loại trà có hoa ngâu trộn lẫn, nhưng đây là lần đầu nhìn thấy loài cây hoa này. Cây hoa ngâu thật đẹp, mùi thơm dịu ngọt và thanh lịch, chủ nhà phải là người am tường về việc trồng hoa, thưởng trà.

Người đàn bà búi tóc cao, ngoài năm mươi đón tôi và chú Phước: “Chào thầy, chú Bảy Hớn giới thiệu nhờ thầy dạy tiếng Anh cho hai đứa con gái tui. Chú Bảy có nói thầy chỉ nhận dạy thêm một học trò, nhưng xin thầy Hoàng thông cảm, dạy cho hai đứa con tui một thể”. Kèm hai học sinh tiếng Anh cấp tốc, lúc này không phải chương trình của tôi. Vừa không hiệu quả nhiều, vì nếu cả hai không cùng trình độ, vừa mất rất nhiều thời gian soạn bài dạy cho hai chương trình cùng một lúc. Có lẽ thấy tôi vân phân, “Tụi nó là hai chị em. Tui sẽ trả tiền dạy cho thầy cả hai đứa một lúc”, rồi bà quay vào trong: “Tuyết à, Duyên à... ra chào thầy nè con”. Dáng dong dỏng cao, tóc buộc dài, hai người con gái tuổi trên dưới hai mươi, có chút nét giống nhau. Nét dịu dàng, khuôn mặt đều đặn dễ nhìn, Lê Thị Duyên mang cảm giác gần gũi hơn. Trái ngược Lê Thị Tuyết là chị, có nét đẹp sắc sảo, đôi mắt nhìn như “lấn áp” người đối diện. Được biết cha là một sĩ quan cao cấp VNCH, đi học tập cải tạo và mất vì trọng bệnh tận tỉnh Vĩnh Phú, miền bắc... Như bao nhiêu buổi học đầu tiên, bài kiểm soát gồm đọc, viết và văn phạm. Tuyết thiếu căn bản, Duyên khá hơn nhưng cả hai gần như đã lâu không có điều kiện thực hành. Thái độ “kênh kiệu” vì biết mình đẹp, biết mình thu hút người khác phái của Tuyết không làm tôi ngạc nhiên. Nhan sắc này, thái độ này tôi đã từng gặp, đã từng quá quen thuộc. Đây là thời gian tôi mệt mỏi, chán nãn những hệ lụy của tình trường. Chương trình tôi sắp xếp ban đầu, chậm cho cô chị và nhiều bài tập cho cô em.  Quả thật vài tuần lễ sau cả hai chị em đã có thể học cùng một bài được soạn chung. Dần dà tôi biết thêm là cả hai chị em đang cùng gia đình có một tiệm cà phê nổi tiếng giữa đường từ thị trấn đến sân bay cũ. Tôi đã nghe nhiều về quán này qua học trò và các thầy trong trường. Thì ra hai cô gái nổi tiếng xinh đẹp của quán cà phê thị trấn đang hằng tuần 3 buổi ngồi cặm cụi “học chui” Anh văn với mình. Ngoài cà phê thì quán còn có món trà ướp hoa ngâu cũng rất được nhắc nhở đến. Khách quen thường gọi một cà phê mà đôi lúc đến vài bình trà hoa ngâu. Nhưng phân lớn là những cây si hai chị em cô hàng cà phê hơn là cà phê ngon dở. Thái độ “kênh kiệu” của cô chị cũng mất dần trong quá trình học tập. Ngoài những buổi học, tôi đề nghị hai chị em nên tập nghe “lén” đài VOA, BBC phần phát thanh Anh ngữ. Có thể không hiểu gì nhiều, nhưng chỉ cần nghe cách phát âm cho quen tai là đủ.

Loáng thoáng đã hơn hai tháng, Tuyết không tiến bộ nhiều, có phần lo ra và không còn cố gắng nhiều nữa. Duyên thì khác, tập trung và cố gắng trong từng buổi học, nghe và phát âm tiến bộ rõ rệt. Tôi gần gũi và có dịp nghe Duyên tâm sự nhiều sau những buổi học. Vài lần nàng rũ tôi ra chợ tỉnh để lấy mối sữa đặc. Phần lớn là từ nhân viên các cửa hàng thương nghiệp bán ra. Chắc chắn là loại hàng “chui”, “lươn lẹo”, cắt đầu giảm đuôi từ khâu phân phối từ trên xuống các cơ quan. Giá cả lấy một bán năm cũng không có gì lạ. Như đám giáo viên chúng tôi, kiếm thêm tiền nhờ bán nhu yếu phẩm. Mọi thứ chưa đến tay thầy cô, nhất là thầy cô xa nhà sống nội trú, đã chạy ra chợ! Tuyết nhiều lần mời đến quán, ngươc lại Duyên không muốn tôi đến thăm quán cà phê viện cớ đông người, phức tạp. Phần lớn khách là dân “phe phẩy”, đám cán bộ công nhân viên ngân hàng, thương nghiệp, công an thị trấn và huyện. Công việc làm ăn thuận lợi đủ để mấy mẹ con có cuộc sống nhẹ nhàng, khá giả. Ở Duyên tôi thấy có chút gì đó của “người xưa”, đôi mắt ngập ngừng muốn nói, bờ môi như luôn chờ đón nụ đời. Một lần đi chợ tỉnh mua hàng, Duyên hỏi: “Anh Hoàng không có dự định gì sao?”. “Dự định gì?”, câu hỏi tôi đã nghe từ nhiều “đối tượng” khác nhau, nhưng cùng chung một ngụ ý. Từ vài phụ huynh của học trò tôi dạy Anh văn, từ chính những học trò trong trường, từ mai mối cho con mình trong chuyến tổ chức vượt biên vội vã. Với bao hệ lụy vây quanh, tôi thật không thể nào có “dự định” hay ít nhất không thể lúc này. “Chưa có dự định gì đâu Duyên”, tôi nhìn nàng trong ánh mắt biết ơn. “Chắc anh Hoàng đang “mắc kẹt” bởi những học trò, bởi những lớp học của anh, phải hông?”, nàng nói nhanh. Thị trấn nơi tôi dạy quả thật nhỏ như bàn tay. Ngôi trường cấp 3 duy nhất lại càng nhỏ hơn. Nhưng không hiểu sao hình ảnh ngôi trường và cái thị trấn bé nhỏ này giữ chân tôi đến như vậy. Có lẽ, Duyên nói đúng, lúc đó hay ít nhất lòng tôi chưa muốn cuộc “phân ly” và chân tôi vẫn nhiều vướng bận.   
 
Chiều hôm đó chỉ có Duyên ở nhà, “Má và chị Tuyết ra quán có chuyện cần giải quyết”, khuôn mặt thoáng chút đăm chiêu. Tách trà tỏa mùi hoa ngâu trắng cuối mùa mưa hương ngào ngạt. Buổi học chừng như cũng gượng ngập, vô hồn. Thỉnh thoảng Duyên đọc vất những từ ngữ dễ, quen thuộc. “Hay để tôi dạy bù vào hôm khác có đủ hai chị em. Hôm nay Duyên không tập trung”. Duyên không nói gì, xếp tập, gật đầu. Tôi cũng thu dọn bài tập chuẩn bị ra về. “Anh Hoàng đợi Duyên một chút”, vừa nói vừa đi nhanh vào nhà sau. Buổi chiều gió hanh hanh mùi nắng thấp. Có chút tĩnh lặng, có chút đợi chờ. Duyên ngồi xuống cạnh tôi: “Gặp anh, được anh Hoàng dạy Anh văn chắc cũng là cái duyên. Ngày mai ra sao, không ai biết trước phải hông anh?”. Tiếng Duyên ngập ngừng, khó khăn hơn: “Chắc anh biết Duyên muốn nói gì... Cảm ơn anh rất nhiều... Hôm nay Duyên muốn tặng anh món quà nhỏ. Mong anh Hoàng đừng từ chối, chê bai...”. “Duyên khách sáo quá. Món quà nhỏ thế nào, tôi cũng trân trọng”. “Vậy anh Hoàng nhắm mắt lại đi. Anh phải nhắm mắt thật chặc nghen!” Tôi nhắm mắt lại thật chặc như lời Thảo. Khoảng tối lờ mờ rơi nhè nhẹ. Bờ môi con gái thoáng trên mắt, dọc theo sóng mũi và ngừng trên môi tôi. Bờ môi thật mềm ấm, cuống quít thật chặc thật lâu. Thật lâu đủ để tôi thấy những giàn hoa ngâu trắng chơi vơi, hương ngon lịm ngọt trên đầu lưỡi muôn trùng. Văng vẳng đâu đó, có tiếng hát ai mơ hồ cho một ngày mai không định trước:

“… Que sera, sera
Whatever will be, will be
The future's not ours to see
Que sera, sera
What will be, will be… (Que Sera Sera – Doris Day)
 
2.
 
Hoa Ngau Trang 2
Tác giả giới thiệu hai tập thơ “ĐCTTTMC” và “Thao Thức” của Trần Trung Đạo (Atlanta, GA)
                                                
Nhận lời mời, tôi tham dự buổi ra mắt hai tập thơ “Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười” và “Thao Thức” của Trần Trung Đạo tại Atlanta, Georgia. Trạc tuổi nhau nên Đạo và tôi thân nhau ngay sau lần đầu tiên gặp gỡ tại Boston vài tháng trước. Tôi đã biết Đạo từ lâu qua bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười và những sinh hoạt của Đạo trên nhiều đoàn thể, nhóm trẻ đấu tranh cuối những năm 90. “... Ví mà tôi đổi thời gian được / Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười”, tôi thường ngâm nga hai câu thơ tâm đắt. Bài thơ được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc và biết đến nhiều cả ở hải ngoại và trong nước. Rồi Đạo thành lập nhóm Cây Me, một diễn đàn “mạng” bao gồm nhóm văn nghệ sĩ, giới sinh viên trẻ cùng nhau thảo luận, chia sẻ những sáng tác, những suy nghĩ canh cánh bên lòng. Diễn đàn nhanh chóng thu hút rất nhiều người cầm bút, anh chị em thế hệ trẻ và mở ra một đường hướng mới cho nhiều diễn đàn nối tiếp. Lần lên Boston vừa qua, tôi ở nhà của Trần Trung Đạo. Đêm đó, tôi và Đạo có dịp trao đổi với nhau rất nhiều về văn học nghệ thuật, những “thao thức” về quê hương, về tuổi trẻ và những ước vọng của mai này. Đạo có giọng ngâm thơ và hát rất hay, truyền cảm. Vài giờ trước khi ra sân bay đi Atlanta thì nhận điện thoại của Trần Trung Đạo, nhờ tôi đọc bài giới thiệu cho hai tập thơ trong buổi ra mắt. Tôi chỉ có hơn một giờ để viết bài giới thiệu trên chuyến bay từ thành phố tôi ở đến Atlanta.
 
Buổi ra mắt hai tập thơ của Trần Trung Đạo thành công tốt đẹp, người tham dự kín cả hội trường. Bài giới thiệu của tôi cũng góp phần nho nhỏ, mấy anh nói “có giọng đọc tốt, truyền cảm”. Trong phần phổ biến và ký sách của Đạo, tôi có dịp gặp gỡ anh chị em văn nghệ sĩ tham dự và nhóm Lạc Việt. Thành phố Atlanta có rất nhiều gia đình cựu sĩ quan quân lực VNCH sinh sống. Tôi và nhà văn HMD có dịp gặp gỡ, tâm sự và hẹn làm một đêm không ngủ. Đêm không ngủ cho những kỷ niệm, những trải nghiệm của mỗi góc đời, mỗi số phận tưởng chừng không cùng, tưởng chừng như thất lạc. Hội trường hơi ồn ào, anh đề nghị ra bên ngoài, dễ nói chuyện hơn. Hai anh em lách đám đông đi ra, thì chợt có một cháu gái nhỏ đến hỏi: “Dạ ai là chú Hoàng ạ?”. “Là chú đây”, tôi rất ngạc nhiên khi nghe người gọi tên thật của mình. Hầu hết mọi người ở đây chỉ biết đến tôi qua bút hiệu Nguyễn Vĩnh Long mà thôi. “Có người gởi cho chú cái này”, cháu gái nhỏ đưa cho tôi một miếng giấy xếp gọn nhỏ rồi vội bỏ đi. Có chút ngạc nhiên nên nói anh HMD ra ngoài trước, tôi sẽ theo sau.

Tôi mở miếng giấy nhỏ, bên trong vỏn vẹn vài dòng chữ ngắn, thật ngắn. Thật ngắn đủ để xô đẩy ký ức tôi chìm sâu bao lớp thời gian ngỡ chừng quên lãng. Trong chập chùng những ngày tháng mênh mông, sao chợt khoắc khoải một khung trời dĩ vãng. Một kỷ niệm muôn trùng, một khuôn mặt người trong những khuôn mặt người lờ mờ trí nhớ. Tôi vội nhìn quanh, nhìn vào đám đông trước mặt. Những khuôn mặt người bao quanh của đời sống. Để tìm ai, khi chính trong tôi không một hình ảnh nào trọn vẹn? Chỉ còn chăng là một cái tên? Chỉ còn lại chăng là bờ môi, là nụ hôn, là căn nhà có hoa ngâu trắng. Trước mắt tôi là đám đông, là cuộc sống, là dòng đời trôi không ngừng bao tiếc nuối. Là em hay là ký ức của tôi. Gặp nhau hay gặp lại chính mình, bên kia bờ dĩ vãng:

“Mừng gặp lại người xưa. Xin thương gọi cố nhân.
Nhà có hoa ngâu trắng”.
 
Durham, North Carolina
Nguyễn Vĩnh Long

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.