Hôm nay,  

Tháng Mười Nhớ Mẹ

25/10/202400:00:00(Xem: 1946)

thang muoi
Suốt cả tuần lễ của đầu tháng 10 vừa qua, trên trang nhất của tất cả những tờ báo quốc doanh đều xuất hiện một dòng chữ đỏ rất to, và rất đậm: CHÀO MỪNG 70 NĂM GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ!

Vietnamnet hớn hở chạy tin: “Đi bất kỳ đâu trên phố trung tâm Hà Nội những ngày này, người dân đều có thể thấy hình ảnh mang ý nghĩa lịch sử về ngày giải phóng Thủ đô cách đây tròn 70 năm trên các pano, áp phích cùng cờ hoa được trang trí rực rỡ… Khoảng 10.000 người có màn tập duyệt cuối cùng các phần diễu hành, trình diễn cho ‘Ngày hội Văn hóa vì hòa bình’ kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2024)”.
 
Ôi! Tưởng chuyện gì lạ, chớ cờ quạt, bích chương, pa nô, áp phích, băng rôn, biểu ngữ, khẩu hiệu (tuyên truyền) thì Hà Nội lúc nào mà không sẵn và ...dư! Hơn nữa, con số hàng chục ngàn người dân Hà Nội túa ra đường hoan hô vẫy chào đoàn quân chiến thắng (hồi bẩy mươi năm trước) là sự kiện hoàn toàn có thật – theo lời của những nhân chứng thế giá:

-         Ngày 10 tháng 10 năm 1954 đúng 10 giờ sáng, lực lượng Kháng Chiến trọng thể tiến vào Thủ Đô. Dẫn đầu là đoàn quân với những lá cờ tung bay với tiếng trống liên hồi. Những cán bộ đứng trên những chiếc xe tải vẫy tay chào đồng bào đứng đầy hai bên đường đang hô to những tiếng vui mừng, phất phất những lá cờ nhỏ. (Nguyễn Mạnh Tường. Un Excommunié – Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectual – Kẻ Bị Mất Phép Thông Công, Hà Nội 1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức, bản dịch Nguyễn Quốc Vĩ).
 
-         Lại nói về ngày 10/10 lịch sử, cho đến 10 h sáng hôm đó thì cả Hà Nội là một ngày hội lớn. Năm cửa ô Hà Nội tưng bừng đón những đoàn quân chiến thắng trở về. Các nghệ sỹ đem cả đàn ra kéo, các chị mặc áo dài, các bà nhà giàu tung hoa tươi lên các đoàn xe trở các đoàn quân tiến vào thành phố… (Lê Phú Khải. Lời Ai Điếu. NXB  Người Việt: 2016).
 
Thiệt là vui hết biết luôn, và vui còn hơn Tết nữa. Niềm vui, tiếc thay, rất ngắn – theo lời của tác giả (và tác phẩm) vừa dẫn:

Ngày vui ngắn chẳng tày gang, không khí hồ hởi vui tươi sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc “đấu tranh giai cấp”, của cải cách ruộng đất, của cải tạo tư sản, đấu tố bọn “Nhân văn Giai phẩm.”

Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn.

Từ nay họ chỉ được nghĩ, được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, một đường lối nếu họ không muốn dẫm vào vết chân của nhóm “Nhân văn Giai phẩm”. Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng lom rom như một kẻ bại trận.
Thảm vậy sao?
 
Ông nhà văn (e) có hơi quá lời chăng?
 
Cũng không quá (lắm) đâu!
 
Tác giả Nguyễn Văn Luận cũng đã từng tâm sự với nỗi buồn phiền tương tự:

Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”.

Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động” thì con nít cởi truồng…

Cha tôi làm chủ một hãng thầu tại Hải phòng trong khi gia đình vẫn ở Hà Nội. Khi người lính quốc gia cuối cùng rút sang bên kia bờ Bến Hải, cha tôi và gia đình kẹt lại do không hiểu gì về cộng sản và tài sản, cơ ngơi còn đó. 

Đỗ Mười về tiếp thu Hải phòng nói rằng các nhà tư sản vẫn được làm ăn bình thường. Một tháng sau, cha tôi bị tịch thu tài sản.  Trở về Hànội, trắng tay, cả nhà sống trong túp lều ở ngoại ô, cha tôi đi đánh giậm, vớt tôm tép trong các ao hồ, rau cháo nuôi vợ con. Đấu tố, cải tạo, chửi rủa, cha tôi ngày một tiều tụy hơn những người tiều tụy bị qui là tư sản còn lại trong thành phố.  Lời trăn trối khi cha tôi khi nằm xuống là “Cha đã bị lừa, con hãy tìm đường vào miền Nam tự do”. 


Câu hỏi đặt ra là sao có quá nhiều người “bị lừa” đến thế trong khi đã có hằng triệu người đã vội vã, hối hả, hốt hoảng và ùn ùn bỏ của chạy lấy người ngay trước mặt mình:

-         Những cuộc tháo chạy trong những hoàn cảnh thật cảm động và đau lòng, bởi vì Việt Minh đã vi phạm trắng trợn Hiệp định Geneva trong cố gắng chống lại Hiệp định ấy. Mới đầu họ còn thuyết phục khuyến dụ, sau đó dùng sức mạnh và nhiều người đã bị thương vì mảnh đạn của cộng sản. Người ta đã thấy hàng ngàn dân cả làng ùn ùn kéo nhau ra biển, đi tắt qua cánh đồng ruộng, tránh đi trên đường lộ bị kiểm soát bởi Việt Minh, rồi kết những bè mảng sơ sài đi ra biển với rất nhiều hiểm nghèo và chẳng có gì chắc chắn là sẽ được cứu vớt.

Hàng trăm người di cư đã chết trên biển. Người ta làm sao có bao giờ có thể tưởng tượng ra cảnh tượng gây ấn tượng như thế vào ngày 6/11 vừa qua, khi một đám đông gồm 2000 người tị nạn trên một cồn cát ở cửa Trà Lý chờ được các tầu các nước bạn đến vớt đi. (Tran Nam Bac. “Le drame des réfugiés catholiques vietnamiens, Agenzia. Internzionale Fides, n°12, 22 Janvier 1955. Bản dịch của Nguyễn Văn Lục).

-         Việc di cư ấy nói cho cùng chỉ là sự kéo dài tình trạng trốn chạy cộng sản mà không phải đợi đến Hiệp định Geneva, 1954. Ngay từ đầu thập niên 1950, phong trào tỵ nạn cộng sản đã thành hình dưới hình thức “phong trào nhập thành”, hay nói nôm na là phong trào “dinh tê”. Đã có bao nhiêu người tìm mọi cách dời bỏ khu “an toàn Phát Diệm”, thoát đi bằng đường biển, từ cửa Cồn Thoi, ra Hải Phòng vào những năm sau 1950?

Và đã có bao nhiêu người có tiền bạc của cải đã chạy trốn vào Nam khi mà Hiệp định Geneva chưa thành hình? Không phải theo Tây, cũng chẳng theo Mỹ, không theo Nhật, không theo Tầu cũng chẳng vì theo Thiên Chúa giáo mà người ta chọn đứng về phía này, phía nọ. Tất cả đều là những chọn lựa bất đắc dĩ chỉ vì không thể sống chung với người cộng sản được. Cộng sản trước đây và cộng sản bây giờ cũng vậy. (Nguyễn Văn Lục. “Nhìn Lại Cuộc Di Cư 1954 – 1955 II”. Đàn Chim Việt Online – 09/12/2023).

thang muoi 2
Lời khẳng định của G.S Nguyễn Văn Lục, không dưng, khiến tôi nhớ đến mẫu thân – một người VN quê mùa và thất học. Nói nào ngay thì bà cũng biết đọc biết viết (sơ sơ) nhưng tôi chưa thấy mẹ cầm cây bút lần nào và có lẽ cũng không bao giờ đọc sách báo gì ráo trọi, ngoài vài ba cuốn kinh (Phật) đã rách bìa long gáy từ lâu.

Vậy chớ khi mà tiến sỹ Nguyễn Mạnh Tường, thạc sỹ Trần Đức Thảo, kỹ sư Võ Quí Hân, giáo sư Trần Đại Nghĩa …  lật đật vội vàng rời nước Pháp để về VN để phục vụ cho cuộc Cách Mạng Vô Sản VN (theo lời kêu gọi của ông Hồ Chí Minh) thì bà cuống cuồng bồng bế mấy đứa con thơ bỏ chạy một mạch vô Nam. May mắn là gia đình chúng tôi chạy thoát. Tuy không thoát luôn nhưng cũng được khá lâu: 1954 – 1975.

Hơn hai chục năm trời. Khoảng thời gian đủ dài để tôi được sống hết cả tuổi thơ và tuổi trẻ trong một vùng đất tương đối an bình, phú túc.  Mẹ tôi hoàn toàn không có khái niệm chi về học vấn, học đường, hay giáo dục. Vốn chữ nghĩa lại vô cùng giới hạn nên bà rất kiệm lời.

Suốt đời bà chỉ biết “giáo huấn” các con bằng đôi câu ngăn ngắn, giản dị và vô cùng dễ hiểu:

-         Đừng bao giờ tin bọn cộng sản, và chớ khi nào dây dưa gì với chúng nó nghe chưa.
-         Dạ mẹ!

Tôi luôn “dạ” ngọt như đường cát (mát như đường phèn) nên chắc hẳn là mẹ hiền phải hết sức hài lòng, và an tâm, ngay cả khi đã bước qua bên kia thế giới.

Khi âm dương chưa cách trở – có lần – từ bên này bờ đại dương xa thẳm, tôi đã đọc cho bà nghe đôi câu thơ của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện:

Thế lực đỏ phải đồng tâm đập nát
Để nó hoành hành, họa lớn sẽ lan nhanh
Đó là lần duy nhất trong đời mà tôi nghe mẹ cười, qua điện thoại. Sao tự nhiên mà nhớ cái tiếng cười (khanh khách) của má quá, má ơi!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
(Hollywood, 15 tháng 12) - Giới điện ảnh Hoa Kỳ và cả chính trường Washington đồng loạt phản ứng gay gắt sau khi Tổng thống Donald Trump đăng một lời bình bị xem là vô cảm và cay độc về cái chết của đạo diễn Rob Reiner và Vợ Michele Reiner. Trên mạng Truth Social, Tổng thống viết rằng Reiner “đã qua đời vì cơn giận dữ do chính ông ta gieo ra cho người khác,” rồi gán cho ông một thứ gọi là “hội chứng rối loạn ám ảnh Trump,” trong lúc bi kịch gia đình vẫn còn chưa ráo máu, theo tờ Daily Mail.
Một chiếc đồng hồ bỏ túi bằng vàng – từng nằm im dưới đáy Bắc Đại Tây Dương hơn một thế kỷ – vừa được đánh thức khỏi giấc ngủ dài bằng mức giá kỷ lục: 1,78 triệu bảng Anh. Chiếc đồng hồ ấy thuộc về Isidor Straus, người cùng sáng lập chuổi cửa hàng Macy’s, một thương gia 67 tuổi đã nằm lại cùng con tàu huyền thoại Titanic trong đêm định mệnh năm 1912. Chiếc đồng hồ – một mẫu Jules Jurgensen 18 carat khắc chữ, được tặng nhân sinh nhật lần thứ 43 của ông vào năm 1888 – nay trở thành hiện vật Titanic có giá cao nhất từng được bán. Kỷ lục cũ vốn thuộc về một chiếc đồng hồ vàng khác từng được trao cho thuyền trưởng con tàu cứu hơn 700 người, bán năm ngoái với giá 1,56 triệu bảng.
Thỉnh thoảng chúng tôi hay tới thăm ông niên trưởng Hải Quân của tôi. Ông đã gần 90 tuổi, mái tóc đã bạc trắng, bên khuôn mặt nhiều vết nhăn, đi đứng chậm chạp, nhưng ông vẫn minh mẫn, trí nhớ vẫn rành rẽ về những câu chuyện thời cuộc xa xưa, và hát vẫn rất hay. Lần thăm viếng vừa qua, ngồi nói chuyện với ông lâu hơn. Trong câu chuyện ông kể: “mình qua đây làm việc vất vả, mong ngày về hưu đưa vợ con đi du lịch cho biết đó biết đây, nhưng không thành, vì bà vợ bị tai biến mạch não khiến nửa người bị tê liệt phải ngồi xe lăn đã 25 năm qua, đi đâu cũng khó khăn”. Tôi bồi hồi xúc động, nhìn ông với tất cả sự cảm thông.
Cuộc sống này không có ai là hoàn hảo mà cũng không có cái gì là hoàn toàn, tất cả mọi sự vật trên đời này đều có khiếm khuyết và không vĩnh cửu. Chính vì thế nếu ai cố gắng đi tìm sự tuyệt đối, họ sẽ thất vọng. Câu thơ trên muốn nói lên ý tưởng, hãy chấp nhận và trân trọng những khiếm khuyết của nhau để chúng ta tới gần nhau hơn, hiểu nhau hơn. Nhà khoa học nổi tiếng Stephen Hawking còn đi xa hơn nữa, ông khẳng định „Nếu không có sự không hoàn hảo, cả bạn và tôi đều không tồn tại” ("Without imperfection, neither you nor I would exist."). Ông muốn nói sự „không hoàn hảo“ của vũ trụ, những giao động đột biến trong quá trình tiến hóa, những sai lệch trong định luật vật lý đã là những điều kiện để tạo nên sự sống trong đó có con người.
Suốt hơn nửa thế kỷ qua, Nghịch Lý Fermi (Fermi Paradox) luôn là một câu đố hóc búa ám ảnh giới thiên văn học. Nói một cách ngắn gọn, nghịch lý này đặt ra câu hỏi: Nếu vũ trụ đã gần 14 tỷ năm tuổi, một khoảng thời gian quá đủ để các nền văn minh tiên tiến, xã hội hiện đại, công nghệ cao phát triển và du hành giữa các vì sao, vậy thì tất cả họ đang ở đâu? Sao chưa có ai ghé qua Địa cầu để “chào một tiếng”?
Trong một bài viết đăng trên trang mạng Psychology Today, Tiến Sĩ Jeff Degraff kể lại một trải nghiệm khá thú vị của mình. Ông cho biết cách đây không lâu, ông bị mắc kẹt. Không phải là kẹt xe hay xếp hàng, mà là một khoảnh khắc mịt mờ về mặt tinh thần. Ông không thể suy nghĩ sâu sắc, không thể cảm nhận được những gì mình đang tiếp xúc. Rồi bất chợt một bài hát hiện lên trong đầu. Không phải bài hát mới nghe gần đây, và cũng không phải bài hát mà ông yêu thích. Nhưng lời bài hát thật sự chạm đến trái tim của ông. Chúng nói lên một điều gì đó mà ông không thể diễn đạt thành lời. Giống như não không muốn nói những lời đơn giản, nên đã quyết định cất tiếng hát.
Cựu Ước chép: “Thiên Chúa lấy đất sét nặn ra ông Adam theo hình ảnh của Ngài. Sau đó làm ông mê đi rồi rút một chiếc xương sườn ra tạo thành bà Eva, dẫn tới tặng cho ông Adam. Ông nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra”. Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau”. Đọc đoạn sách Sáng Thế Ký này, tôi bâng khuâng. Vậy là hai ông bà chưa trưởng thành, nhìn nhau như hai đứa trẻ ở truồng tắm mưa, chẳng động tĩnh chi. Thua xa ông Luân Hoán.
Sáng Chủ Nhật, ngày 19 tháng 10, giữa lúc khách tham quan vẫn đang tấp nập trong viện bảo tàng Louvre, một nhóm gồm bốn tên trộm bịt mặt đã thực hiện vụ trộm liều lĩnh hiếm thấy. Bốn kẻ bịt mặt đã đột nhập Bảo Tàng, dùng cần cẩu phá vỡ cửa sổ tầng trên của tòa nhà Galerie d’Apollon, khu trưng bày các bảo vật hoàng gia Pháp, cuỗm đi những món báu vật vô giá rồi tẩu thoát bằng xe gắn máy (motorbike).
Trong một đêm nhạc thính phòng trình bày nhạc Từ Công Phụng và Ngô Thụy Miên được tổ chức tại Vancouver, Canada, ít năm trước đây với sự có mặt của hai nhạc sĩ, tôi có tham dự. Phần đầu các ca sĩ hát nhạc của họ Từ, phần sau nhạc của họ Ngô, có nghỉ giải lao ở giữa. Trong giờ giải lao, tôi vào sau sân khấu để hàn huyên với ca sĩ Diễm Liên. Chúng tôi đang nói chuyện thì nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đi ngang qua, nói với Diễm Liên: “Nhớ hát đúng lời nhạc nhé!”. Diễm Liên le lưỡi, cười. Tôi giữ ý đi ra cho cô…ôn bài.
Ai cũng biết rằng học chơi nhạc cụ có thể mang lại nhiều lợi ích bên ngoài lĩnh vực âm nhạc. Nhiều nghiên cứu cho thấy chơi nhạc rất tốt cho não bộ, giúp cải thiện các động tác tinh tế, khả năng tiếp thu ngôn ngữ, đối thoại, trí nhớ, giúp não bộ chậm lão hóa. Sau nhiều năm làm việc với các nhạc sĩ, chứng kiến họ kiên trì luyện tập âm nhạc bất chấp cơn đau do thực hiện hàng ngàn động tác lặp đi lặp lại, một nhà nghiên cứu thần kinh học Đan Mạch đặt câu hỏi: nếu luyện tập âm nhạc có thể thay đổi não bộ theo nhiều cách như kể trên, liệu nó có thể thay đổi cách các nhạc sĩ cảm nhận cơn đau?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.