Hôm nay,  

Trăng Thiền

02/01/202509:11:00(Xem: 3626)
Tưởng niệm Khánh Trường

KHANH_TRUONG& Tranh

Giữa mình và Khánh Trường có chút tình văn nghệ tuy thỉnh thoảng mới gặp nhau. Nay Khánh Trường vừa ra đi xin đăng lại một bài viết về Trăng Thiền cách đây cũng đã mươi năm nhân Khánh Trường triển lãm một loạt tranh mới chủ đề là Đáo Bỉ Ngạn và có gởi cho Nguyễn hình chụp một số bức để đưa lên Phố Văn. Xin mời bạn đọc theo dõi bài viết.

Những ngày gần đây, báo chí và các trang mạng đồng loạt đưa tin và bài về họa sĩ/nhà văn Khánh Trường. Tạp chí Ngôn Ngữ đã ra một số chủ đề Khánh Trường (số 22 tháng 11.2022) với bài viết của các tác giả Hoàng Khởi Phong, Lữ Quỳnh, Luân Hoán. Trương Vũ, Lê Chiều Giang… Nguyễn vốn có mối thân tình với người chủ trương Hợp Lưu, nhân đây, xin đăng lại một bài tản mạn viết trước đây nhân cuộc triển lãm tranh Thiền của bạn vào tháng 2. 2012 ở Sùng Nghiêm Zen Center, California.

Có không, trăng thiền? Hay chỉ do trí óc đầy huyễn hoặc của một con người đang bước xiêu xiêu giữa cõi đời tưởng tượng ra và nghĩ là mình nhìn thấy thật?
 
Vâng. Quả là đêm nay, một đêm cuối năm, người viết ngồi nhìn qua khung cửa sổ thấy một mảnh trăng treo lơ lửng trên đỉnh cây phong trụi lá. Và do ảnh hưởng  những bức tranh thiền của Khánh Trường vừa gởi tới, trong đó có những bức vẽ vầng trăng khuyết, nên Nguyễn đã nghĩ ra như vậy. Một phần nữa cũng là vì mình vừa trải qua một mất mát quá lớn trong đời nên muốn tìm tới ý nghĩa cốt lõi, dung dị mà thâm sâu của đời sống này. Vì vậy nên Nguyễn mượn hình ảnh mảnh trăng nghiêng kia để nói về những bức tranh Thiền của Khánh Trường. Ôi, cũng thật là đầy mộng và ảo, nên xin bạn đọc tha thứ giùm cho.
 
Nhưng trước hết xin thưa cùng bạn đọc: Người viết và Khánh Trường quen nhau cũng đã hơn mười lăm năm nay, từ hồi Khánh Trường còn khỏe mạnh tươi vui và còn làm tờ Hợp Lưu. Còn nhớ trong lần giới thiệu thơ của Nguyễn Nam An và Phan Ni Tấn tại hội trường báo Người Việt vào năm 1996 có sự hiện diện của Mai Thảo, Phạm Duy, Thái Thanh, Đỗ Ngọc Yến, Lê Đình Điểu, Nghiêu Đề, Lê Uyên Phương, Thảo Trường… Khánh Trường đã mời Nguyễn đi dự tiệc chung với mọi người. Đây là lần đầu tiên Nguyễn tiếp xúc với anh em văn nghệ Cali.
 
Tiếp đến những tháng năm sau, Khánh Trường lâm trọng bệnh phải vô ra nhà thương nhiều lần. Do ảnh hưởng của bệnh, Khánh Trường nói rất khó khăn và phải đi xe lăn. Chúng ta hãy nghe Đinh Cường: “Đời sống tâm linh đã cứu rỗi con người, một con người tưởng như đã chết đi và sống lại, sống lại lẫm liệt để Qua Bờ.” Thật vậy, Khánh Trường đã phấn đấu ngày đêm để có thể làm việc và vẽ trở lại. Bây giờ, với 30 bức tranh Thiền sẽ trưng bày ở 11561 Magnolia Street, Garden Grove, CA, vào dịp Tết này Khánh Trường đã cho thấy sự bình an tĩnh lặng trong anh. Thật vậy, Khánh Trường bộc bạch: “Nhẹ nhàng, thoải mái, giữ cho tâm thân lúc nào cũng an bình. Với cá nhân tôi, Thiền chỉ giản dị thế thôi. Nên khi vẽ những bức tranh liên quan đến chủ đề Thiền, tôi luôn tự nhủ sẽ tuyệt đối trung thành với ý niệm trên. Vì vậy 30 bức tranh trong lần triển lãm này đều được gạn lọc, hạn chế tối đa từ đường nét, màu sắc đến đề tài; cũng như không để mình bị cuốn vào những lãnh địa mới, lạ mà hầu hết họa sĩ đều mong thử nghiệm, khai phá. Cũng có nghĩa tôi dùng một bút pháp rất chân phương, mộc mạc để chuyển tải những giáo lý cơ bản nhất của Phật giáo với mong ước ai cũng có thể tiếp cận và hiểu dễ dàng “.

 
“Lời bộc bạch trên của tác giả -vẫn theo Đinh Cường- như dẫn chúng ta đi vào tranh anh, một thế giới khác so với những thập niên trước, một con người năng động, đầy sắc màu trong văn chương nghệ thuật, cũng phải kể đến thời sung mãn khi anh đứng mũi chịu sào làm tờ Hợp Lưu, một tờ nguyệt san đẹp về hình thức lẫn nội dung, cho đến nay Đặng Hiền vẫn tiếp tục, trong tình hình kinh tế khó khăn, hai ba tháng ra một số…”
 
Vâng, mười năm trước Khánh Trường bị tai biến mạch máu não. Đôi chân hầu như bất khiển dụng, phải ngồi xe lăn, hai tay lọng cọng, cầm đũa rớt lên rớt xuống, viết, vẽ không được. Mắt mờ, nhìn một thành hai. Nói năng ngọng nghịu khó khăn. Một năm sau bị thêm 2 bạo bệnh, ung thư thanh quản và loét bao tử…Thế mà Khánh Trường vẫn tiếp tục sáng tác được, dù vô cùng khó khăn. Anh đã hoàn thành đến gần 100 tác phẩm. Đây là lần triển lãm thứ 3 sau cơn bệnh.
 
Đinh Cường nhận định tiếp: “Xem qua 30 bức tranh trên internet không bằng đứng trước những tấm toile nhưng sự xúc động đã đến với tôi, tôi bắt gặp ở đó sự chân thật của xúc cảm và sáng tạo, vẫn Khánh Trường với màu xanh trong mênh mông, vẫn vầng trăng, núi đồi, vẫn tĩnh vật mấy quả táo, vẫn chiếc khăn phơi, vẫn những kỷ niệm từ một thời niên thiếu bên triền cát trắng, đến thời thanh niên với những lần hành quân qua Khe Sanh miền địa đầu giới tuyến trùng điệp núi rừng, bom đạn … để bây giờ là Bầu Rượu Bể, là Tịch Lặng, là Khổ Hải, là Vô Thường… để đi đến Hành Trình Giác Ngộ như trong Thập Mục Ngưu Đồ… Khánh Trường đã thõng tay vào chợ, chỉ còn một vòng trống không …người trâu đều quên .Và thật sự Khánh Trường, người họa sĩ tài hoa, nhiều nghị lực ấy đã quên chưa Nghiệp Chướng?”
 
Với Nguyễn, như đã nói từ đầu, tranh Thiền của Khánh Trường gợi ra trong trí óc Nguyễn một vầng trăng khuyết. Như Nguyễn đã nhìn thấy nó ở buổi ấu thời, nơi Vương Phủ, hay sau này trong những bước trắc trở của cuộc đời, hay như mới đây khi Dung bỏ Nguyễn ra đi. Nó không hẳn là vầng trăng tật nguyền nổi trên biển khổ như Khánh Trường miêu tả. Mà là những mảnh trăng trong Hành Trình Giác Ngộ của bạn. Nó vẫn là hình ảnh đẹp  của cõi huyễn này nhưng nó bất toàn, bị rơi rụng đâu mất một phần. Và Nguyễn gọi nó là Trăng Thiền để chứng cho cái mà mình có giữa đời này -hạnh phúc chăng- có thể là thế nhưng đôi khi rưng rưng lệ.

KHANH_TRUONG. rRanh thiền 2
KHANH_TRUONG_tranh thiền
Tranh thiền. Khanh Truong 

– nguyễnxuânthiệp

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)
Nhã Ca sáng tác bài “Một Đoạn Nhã Ca” vào năm 1972. Trước biến cố lịch sử 1975, bà là một trong vài nhà thơ nữ hàng đầu ở Miền Nam Việt Nam, với dòng thơ mang những tứ thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ lãng mạn, ý niệm thể hiện và bênh vực giá trị của người nữ. Thơ Nhã Ca có thể gom vào hai chữ “dám nói.” Bài “Một Đoạn Nhã Ca” mở đầu bằng 9 câu, kết bằng 3 câu, và 111 câu thân, tổng thể là 123 câu, chia ra 15 đoạn. Nhìn một cách tâm lý, phải chăng 15 đoạn thơ này đại biểu một số điều cho một đoạn tiểu sử ngầm của Nhã Ca? Nói một cách văn vẻ, phải chăng có 15 cửa sổ để mở nhìn vào căn nhà bí ẩn của một nhà thơ nữ? Đây là bài thơ truyền đạt qua thể thơ tự do. Số chữ không đều trong mỗi câu. Số câu không đều trong mỗi đoạn. Số đoạn không có giới hạn trong bài. Sự so le và thoát khỏi ràng buộc này nói lên tình tiết diễn đạt qua thơ không bị tù túng, ý thơ không bị chật hẹp trong luật lệ. Phù hợp với cảm xúc thôi thúc, ngổn ngang của tác giả và tạo ra cảm giác kích động của độc giả
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh. Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này.
Krasznahorkai, trong các tiểu thuyết như Melancholy of Resistance hay Baron Wenckheim’s Homecoming, viết như người vừa chứng kiến ngày tận thế và vẫn phải tiếp tục kể, dù biết không còn có người nghe. Văn chương ấy, như James Wood nói, “vừa tuyệt vọng vừa kiêu hãnh, như một bản cầu siêu cho nhân loại.”
Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vừa từ trần vào lúc 10 giờ sáng ngày 14/10/2025 tại bệnh viện ở Nam California hưởng thọ 102 tuổi . Ông sanh năm Quí Hợi 1923 nên tính theo tuổi ta, ông thượng thọ 103 tuổi. Nhân đây, tưởng nhớ ông nên đắng lại bài viết Tác Phẩm Khu Rừng Lau Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vào ngày 5/11/2025
László Krasznahorkai – nhà văn Hungary vừa được trao giải Nobel văn chương – nổi tiếng với những câu văn dài như một hơi thở kìm nén, nơi ý tưởng đi qua địa ngục mà vẫn giữ vẻ điềm tĩnh của thiên thần. Một thiên thần lướt trên chúng ta là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy: giữa bùn lầy chiến hào và tiếng pháo rít xé trên đầu, một người lính cụt chân, mắt mờ, lại giảng về văn minh số, về văn hóa như bản năng sinh tồn của loài người. Chiến tranh vẫn gầm thét, nhưng lời anh vẫn tuôn, dài, sáng, và lạ thay – đầy hy vọng. Bản Việt ngữ của Ngu Yên dịch từ bản Anh ngữ của John Batki, giữ nguyên nhịp câu, những đoạn văn dài như dòng suy tưởng không dứt.
Khoảng hai giờ trước khi Mats Malm, vị thư ký trầm tĩnh của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, bước ra, thế giới vừa nghe tin: Israel và Hamas ký hiệp định hòa bình. Một mẩu tin nhỏ, nhưng làm cả hành tinh thở nhẹ. Có lẽ, nếu tinh ý, người ta đã thấy khóe miệng vị diễn giả ấy nhích lên một nụ cười như thể dành riêng cho nhân loại, sau khi đã hứng chịu quá nhiều tuyệt vọng. Và rồi, cái tên được xướng lên: László Krasznahorkai, nhà văn Hungary – kẻ viết những câu văn dài như cơn hấp hối, nhưng mỗi chữ lại sáng rực như ngọn đèn dầu giữa đêm mất điện. Một bất ngờ… mà thật ra chẳng mấy ai bất ngờ. Viện Hàn lâm Thụy Điển, như thường lệ, lại khiến người ta ngạc nhiên bằng cách không hề ngạc nhiên.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.