Hôm nay,  

“Tản mạn Văn học” với nhà văn / nhà thơ Trịnh Y Thư

17/01/202520:33:00(Xem: 3799)
TMVH - TYT 1

Phát thanh viên Nhã Lan của kênh truyền hình Hồn Việt TV (Orange County, CA)
nói chuyện với nhà văn / nhà thơ Trịnh Y Thư.

 

Nhã Lan (NL): Chương trình Tản mạn Văn học Hồn Việt TV kỳ này hân hạnh được tiếp chuyện với nhà văn / nhà thơ Trịnh Y Thư, người vừa cho xuất bản ba tác phẩm của ông: cuốn tiểu thuyết “Đường về thủy phủ”, tập truyện “Người đàn bà khác” và tuyển tập thơ văn “Văn chương Nghệ thuật & Những điều khác”.
    Nhã Lan xin có vài lời sơ lược về nhà văn Trịnh Y Thư. Trịnh Y Thư, tên thật Trịnh Ngọc Minh, sinh ngày 11 tháng 2 năm 1952 tại Hà Nội. Theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Lớn lên ở Sài Gòn. Năm 1970 sang Mỹ du học, và sau khi tốt nghiệp, làm việc trong ngành điện tử viễn thông cho đến khi về hưu năm 2018. Viết văn, làm thơ, dịch. Nguyên chủ bút tạp chí Văn Học (California). Từ năm 2021 đảm nhiệm chức vụ Chủ bút Việt Báo Daily News, đồng thời chăm sóc cơ sở xuất bản Văn Học Press. Ngoài các sinh hoạt văn chương, Trịnh Y Thư còn là một cầm thủ ghi-ta cổ điển, và sáng tác nhạc gồm những tấu khúc cho piano, ghi-ta, và một ít ca khúc lời Việt. Cho đến nay Trịnh Y Thư đã xuất bản 10 đầu sách gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, tạp văn, tạp luận và dịch thuật.
    Trước hết Nhã Lan xin trao đổi với nhà văn Trịnh Y Thư về cuốn tiểu thuyết “Đường về thủy phủ”, vì hình như đây là tác phẩm ông ưng ý nhất trong số những tác phẩm ông xuất bản thời gian gần đây.
    Xin ông cho biết ý nghĩa của từ “Thủy phủ” trong cuốn tiểu thuyết này. Nó là một biểu tượng văn học hay một ẩn dụ nào?
 
Trịnh Y Thư (TYT): Xin thân chào chị Nhã Lan, kính chào khán thính giả Hồn Việt TV. Trước khi trả lời câu hỏi của chị về ý nghĩa của từ “Thủy phủ” sử dụng trong nhan đề cuốn tiểu thuyết, tôi xin nói về chủ ý của tôi khi viết cuốn sách này. Như tôi có thưa trong phần “Lời ngỏ”, cuốn tiểu thuyết của tôi tuy lấy bối cảnh 30 năm chiến tranh Việt Nam nhưng tôi không có chủ ý viết về chiến tranh hay lịch sử, mà viết về sự thất lạc của con người trong cuộc sống hiện đại, thất lạc vì chiến tranh và thất lạc vì chính con người mình. Bây giờ xin nói qua về từ “Thủy phủ” mà chị nhắc đến.
    Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, còn gọi là Đạo Mẫu, thờ bốn Mẫu, tượng trưng cho bốn thuộc tính cơ bản của thiên nhiên: Thiên/ trời; Địa/ đất; Thủy (hay Thoải)/ nước; và Nhạc/ rừng. Khi sử dụng ẩn dụ “Thủy phủ”, chủ ý của tôi là muốn vay mượn khái niệm tín ngưỡng này làm một biểu tượng. Biểu tượng của sự trở về cái bản thể uyên nguyên của con người như một sinh vật sống theo lẽ thuận hòa của trời đất, trong đó sự tử tế là một tố chất không thể thiếu, để tìm lại sự sống sau những đổ vỡ, tan tác, chia lìa. Con người chúng ta đã phân hóa quá nhiều, chiến tranh triền miên không dứt, và chỉ khi nào ta nhận chân ra sự thật là ý thức hệ của ta đã như cái vòng kim cô bó chặt trí óc ta, thì lúc đó ta mới có thể tìm về Sự Thật, tìm về cội nguồn.
    “Thủy phủ”, theo truyền thuyết huyền sử Việt, cũng là kinh đô nơi Lạc Long Quân ngự trị. Theo Việt thoại thì “Kinh Dương Vương xuống Thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân…” Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ sinh ra trăm con, khởi nguyên cho dòng giống Việt. Và, nếu hiểu như thế thì “Đường về thủy phủ” chính là đường về cội nguồn dân tộc.
 
NL: Nhân ông nói đến “ý thức hệ”, Nhã Lan nhớ là trong cuốn tiểu thuyết có đoạn như sau, chính xác hơn, nó là câu nói của nhân vật Luke khi trả lời một câu hỏi của nhân vật xưng “tôi” trong truyện: “Không ai có thể cho các anh một phương kế giúp các anh xây dựng đất nước. Các anh phải tự mình tìm ra thôi. Chỉ cần các anh thực lòng nghĩ đến đất nước, đặt quyền lợi tổ quốc lên trên hết. Và nhất là không để bất cứ một ý thức hệ nào chi phối chỉ đạo cho hành động. Ý thức hệ sẽ biến các anh thành cuồng tín, và kẻ cuồng tín không ngần ngại giết hàng triệu người để thực hiện hoài bão của mình, một hoài bão to lớn dị thường bởi hắn luôn nghĩ mình là người khổng lồ.” Theo ông thì cái ý thức hệ đó tai hại như thế nào mà đã khiến ông hạ bút viết một câu như thế?
 
TYT: Trong suốt chiều dài lịch sử loài người, từ Âu sang Á, chúng ta chứng kiến không ít những thảm cảnh trong đó con người vô cùng tàn ác, nhẫn tâm với đồng loại. Nhân tính ở đâu? Làm sao người ta biện minh, thực chứng được hành vi gây khổ ải cho kẻ khác? Câu hỏi này đã được chính ông nhà văn Nga Aleksandr Solzhenitsyn hỏi, và câu trả lời của ông chỉ giản dị là: Nó chính là cái ý thức hệ. Theo Solzhenitsyn, nguyên ủy của tội ác là ý thức hệ. Ý thức hệ cung cấp kẻ ác sự bền bỉ và quyết tâm, bằng mọi giá, phải tiêu diệt tất cả những kẻ cản trở bước đường của mình. Nó được bao bọc bởi lớp hào quang giả tạo rồi trang trọng đưa lên bàn thờ. Từ đó kẻ gây tội ác cứ việc an tâm gây tội ác mà lương tâm chẳng hề bị cắn rứt, bởi hắn chỉ cần vái lạy, nhân danh cái ý thức hệ đó thì bất cứ việc gì, dù tàn độc cách mấy, hắn vẫn có thể thản nhiên làm được. Ý thức hệ đứng đằng sau phương châm “cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Đó là lý do vì sao cả trăm nghìn dân bản xứ da đen, da vàng bị thực dân da trắng giết vứt xác xuống sông (nhân danh ý thức hệ văn hóa khai phóng); vì sao sáu triệu người Do Thái bị Đức Quốc xã giết thảm trong Lò Thiêu (nhân danh ý thức hệ chủng tộc thượng đẳng), vì sao cả chục triệu người chết lần mòn trong các trại tù khổ sai Gulag ở Siberia và các nơi khác, trong đó có Việt Nam (nhân danh ý thức hệ Cộng sản), v.v.
    Ở bình diện này, con người không va chạm với con người khác mà với những thế lực điên khùng, những thế lực vô hình nhưng vô cùng mạnh mẽ. Con người cảm thấy như tê cứng, bất lực trước những thế lực đó. Chúng chế ngự, kiểm soát, chiết tỏa mọi hành vi và tư tưởng của hắn.
 
NL: Và, phải chăng do suy nghĩ như thế nên ông đã miêu tả những phân cảnh giết người rùng rợn trong cuốn sách của ông? Thí dụ như cảnh tàn sát cả một buôn bản người H’Mông trong phần I “Ký ức của loài bò sát” hay cảnh người đàn bà đi tìm xác chồng trong phần II “Dưới những gốc nho biển”?
 
TYT: Thưa chị, vâng. Tôi chỉ tiếc là tài năng của tôi không đủ sức để viết thêm những tội ác con người gây nên cho con người. Tuy vậy, những điều ta thường thấy miêu thuật trong sách vở xem ra còn thua xa chuyện thực tế xảy ra ngoài đời. Về điểm này, đôi khi hiện thực đời sống khốc liệt và bi thảm hơn nhiều so với hiện thực văn chương.
 
NL: Nếu như vậy, cuộc hành trình về “Thủy phủ” của ông chính là con đường giải thoát cho chúng ta?
 
TYT: Thưa không. Khi nói đến hành trình trở về “Thủy phủ”, tôi chỉ muốn nêu ra một khả thể, một khả thể vô cùng yếu ớt, vì nó chỉ có khả năng xoa dịu bớt những đớn đau, khổ ải của kiếp người. Trong lúc viết cuốn sách, tôi hay nghĩ đến Triết học Hiện sinh Phi lý của nhà văn Pháp Albert Camus. Như tôi đề cập trong sách, Camus tin rằng đứng trước sự phi lý, con người có hai lựa chọn chính: khuất phục trước sự tuyệt vọng hoặc nổi dậy chống lại sự phi lý của cuộc sống. Ông xem nổi loạn là hành động thách thức sự vô nghĩa cố hữu và là phương cách để khẳng định sự tồn tại của chúng ta. Sự nổi loạn này không nhất thiết dẫn đến hành động cách mạng, mà đúng hơn, nó liên quan đến việc một cá nhân từ chối chấp nhận một số phận vô nghĩa. Trong khi thừa nhận sự vắng mặt của ý nghĩa nội tại trong vũ trụ, Camus cũng tôn vinh giá trị và phẩm giá của cuộc sống con người. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đoàn kết, lòng trắc ẩn và sự đồng cảm. Ông nhiệt tình ủng hộ ý tưởng tạo ra một thế giới công bằng và nhân đạo hơn thông qua những nỗ lực tập thể. Tóm lại, triết học của Albert Camus xoay quanh tính phi lý của sự tồn tại (mà chiến tranh là một phi lý ghê rợn nhất), đồng thời nó bác bỏ ý nghĩa tuyệt đối, và kêu gọi đón nhận cuộc sống bất chấp những thách thức. Đấy chính là “Đường về thủy phủ” trong nhãn quan của tôi.
 
NL: Trong phần III của “Đường về thủy phủ”, nhân vật nữ có lúc là ảo nhưng có lúc là thực. Ông có thể nói qua về chủ đích của ông khi cho nhân vật của mình xuất hiện như thế trong truyện.
 
TYT: Thực và ảo trong hiện thực văn chương là một. Các nhà văn trong thời Hiện đại thường không phân biệt hiện thực “thực” và hiện thực “ảo”. Gabriel Gárcia Márquez là một nhà văn như thế. Và phong cách văn học này của Márquez chịu ảnh hưởng của Franz Kafka. Các nhà văn khác như Milan Kundera, Kurt Vonnegut đều viết như thế cả. Lợi điểm khi ta cho nhân vật lúc thực lúc ảo là ta có thể nói được nhiều điều hơn. Dòng ý thức khi nhân vật là ảo được làm sáng tỏ hơn và có những điều không thể nói được nếu nhân vật giữ vai trò thực suốt truyện. Tâm trạng một nhân vật như thế có thể gọi là trạng thái tâm thần phân liệt, và đó chính là thủ pháp văn chương rất lợi hại. Tôi học được điều này từ Kafka, lẽ tất nhiên.
 
NL: Khi viết cuốn tiểu thuyết, ông có chủ đích đưa ra một luận đề hay một thông điệp nào không?
 
TYT: Mặc dù bối cảnh cuốn tiểu thuyết là lịch sử, một lịch sử khốc liệt trong thời cận và hiện đại của dân tộc, nhưng tôi hoàn toàn không có chủ đích đưa ra bất kỳ một luận đề hay thông điệp gì, nếu hiểu luận đề hay thông điệp hàm chứa một bội âm chính trị hay xã hội. Lịch sử ở đây chỉ là những gam màu rất mờ nhạt làm phông cho câu chuyện tôi muốn kể. Thế nhưng, các nhân vật trong truyện đều là nạn nhân của lịch sử; dưới bánh xe khắc nghiệt của lịch sử, họ mắc kẹt, không lối thoát. Họ đâu muốn thế nhưng họ không có chọn lựa nào khác, và lịch sử thì mù lòa và tàn khốc. Nó chính là tính phi lý trong Triết học của Camus, và cách thế duy nhất cho sự tồn tại của họ là đón nhận cuộc sống bất chấp những thách thức của nó.
 
NL: Cuốn tiểu thuyết này của ông, về mặt cấu trúc và bút pháp, hình như muốn phá vỡ tính truyền thống thường thấy trong văn chương Việt Nam. Ông có thể nói gì thêm về điều đó?
 
TYT: Điều tôi tin tưởng là trong văn chương hay nghệ thuật nói chung, hình thức và nội dung luôn đi song đôi với nhau. Hình thức bổ sung cho nội dung và nội dung phản ánh nơi hình thức. Hình thức cuốn tiểu thuyết này là phi tuyến tính, nó không tuân thủ một trình tự biên niên như thường thấy trong các tiểu thuyết truyền thống. Thay vì di chuyển theo đường thẳng từ đầu đến cuối, một tự sự phi tuyến tính có thể nhảy qua nhảy lại các mốc điểm thời gian, thay đổi góc nhìn hoặc trình bày các sự kiện không theo thứ tự. Cách tiếp cận này cho phép kể một câu chuyện phức tạp và đa tầng hơn, vì tác giả có thể khám phá ký ức, nhận thức và trải nghiệm chủ quan tại những mốc điểm thời gian khác nhau. Các nhân vật trong truyện có thể kể các phần của câu chuyện, thường không đồng bộ với nhau, và tiết lộ cùng một sự kiện từ các góc độ khác nhau.
    Về bút pháp thì tôi đã sử dụng kỹ thuật “dòng ý thức” và “siêu hư cấu”, vốn rất phổ biến trong các tác phẩm của James Joyce, Virginia Woolf, William Faulkner, Gabriel García Márquez, Milan Kundera và Kurt Vonnegut… Đây là những nhà văn bậc thầy của văn học thế giới thời Hiện đại mà tôi đã học hỏi rất nhiều từ họ.
 
NL:  Bây giờ chúng ta có thể quay sang cuốn “Người đàn bà khác”. Xin ông cho biết, ông đã viết và xuất bản cuốn sách này trong trường hợp nào?
 
TYT: Cuốn sách này là một tập hợp những truyện ngắn tôi viết từ thuở còn trẻ và lấn qua thời trung niên, tức là những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, lúc sinh hoạt văn chương Việt hải ngoại đang ở giai đoạn khởi sắc nhất. Sinh hoạt của chúng tôi dạo ấy phần nhiều xoay quanh tờ Văn Học, một tạp chí chuyên đề văn chương do nhà văn quá cố Nguyễn Mộng Giác lúc đó phụ trách biên tập và điều hành. Tờ tạp chí phát hành đều đặn mỗi tháng một số, và hầu như tất cả những sáng tác thơ văn của tôi lúc đó đều đăng trên tạp chí này. Năm 2010, tôi chọn ra một số những truyện ngắn ưng ý, hợp tác với cơ sở xuất bản Song Thúy ở Hà Nội xuất bản tập truyện, và được nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên ưu ái viết Tựa. Tập truyện chỉ phát hành giới hạn trong nước, ít lâu sau thì tuyệt bản, và từ đó cho đến nay tôi vẫn giữ ý định tái bản cuốn sách ở hải ngoại. Ý định đó hôm nay đã thành sự thật.
 
NL: Lúc ông viết những truyện ngắn ấy, hoàn cảnh và tâm cảnh của ông là gì?
 
TYT: Có lẽ là một hoàn cảnh “lưu vong” trong một tâm cảnh “hoài nghi”. Ngày nay, sau gần nửa thế kỷ sinh sống ở ngoài nước, ít ai còn nhắc tới hai chữ “lưu vong” nữa. Nó có vẻ lỗi thời một cách thảm thương, mặc dù, ở chừng mực nào đó, những người viết ở hải ngoại hay ngay cả trong nước, nếu không chấp nhận sự chiết tỏa của nhà cầm quyền áp đặt lên tác phẩm mình, đều mang một ý thức chính trị rõ rệt, và chẳng có gì thái quá nếu ta gọi chung đó là văn học lưu vong. Tuy thế, ở vào thời điểm tôi viết những truyện ngắn này, lưu vong là một thuộc tính tất định và tất yếu của văn học Việt Nam hải ngoại. Không ai ngần ngại khi gọi đó là dòng “văn học lưu vong.”
    Đó là thời kỳ khi người ta vẫn chưa tan cơn sốc của biến cố lịch sử 30/4/1975 sau một thời gian dài nội chiến. Khi bỏ xứ ra đi người ta xem như mất hết, mất quê hương và mất cả cội nguồn. Bởi thế, nếu hiểu “lưu vong” là “tan mất” thì thuật ngữ này biểu hiện chính xác tính cách của thời đại, một thời đại tâm hồn không trú xứ.
    Còn tâm cảnh thì sao?
    Nó là một tâm cảnh hoài nghi. Hoài nghi khi trông thấy sự tan rã của cả một tập thể con người, quê hương hấp hối trong nghèo đói và tù đày, thảm trạng thuyền nhân khiến lương tâm cả thế giới bị đánh động, đời sống mới nơi xứ người thảm thương, nhếch nhác. Và, đường về thì xa tít tắp, mù tăm.
 
NL: Ông vừa đề cập đến nhóm từ “văn học lưu vong”. Theo ông thì dòng văn học Việt Nam hải ngoại hiện nay có thể gọi là văn học lưu vong được chăng, mặc dù, như ông nói, từ “lưu vong” ngày nay xem ra không còn thích hợp nữa? Nói cách khác, ông định nghĩa “lưu vong” là gì? Ta phải hiểu “lưu vong” như thế nào trong bối cảnh cuộc sống ngày hôm nay nơi quê người?
 
TYT: Ngày nay hầu như bất cứ ai định cư ở nước ngoài đều có thể trở về thăm quê hương bản quán, thậm chí về sinh sống, làm ăn. Một số người cầm bút tôi quen biết cũng trở về tậu nhà sắm xe sống hẳn trong nước như một kiều dân. Do đó, nếu gọi đời sống của người Việt hải ngoại là “lưu vong” thì tôi e có người phản đối. Tuy nhiên, ta phải hiểu đó là hình thức lưu vong địa lý. Đối với một người cầm bút thì động thái lưu vong đó chỉ có tính cách phiến diện, ta nên hiểu lưu vong là lưu vong trong tâm thức, một tâm thức lưu đày, một tâm thức lạ hóa không thể nào tương hợp với thực thể xã hội, chính trị xung quanh, một tâm hồn trôi giạt, một tâm hồn không trú xứ. Người lưu vong có thể là kẻ đang sinh sống ngay trên quê hương mình hay tại một góc trời xa xăm nào đó. Họ gặp nhau tại một tụ điểm diaspora ảo, tụ điểm có bảng cắm hai chữ “lưu vong.” Nói như thế, lưu vong không là một cảnh huống, mà là một thái độ, một thái độ có chọn lựa và quyết liệt.
 
NL: Và, đó là chủ đề xuyên suốt tập truyện “Người đàn bà khác” của ông?
 
TYT: Chỉ một phần thôi, thưa chị. Về điểm này, tôi xin mượn lời nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, ông viết trong Tựa cuốn sách như sau: “… truyện của Trịnh Y Thư không chỉ là ám ảnh và hậu quả cuộc chiến. Hình như nó còn chạm đến “condition humaine” của nhân loại thời nay. Buồn bã, day dứt, bế tắc”.
 
NL: Trong buổi Ra Mắt Sách của ông hôm 12 tháng 10 năm 2024 vừa qua tại Coffee Factory ở Quận Cam, California, tạp chí Ngôn Ngữ có giới thiệu ấn bản đặc biệt về Trịnh Y Thư. Ông có thể cho độc giả biết qua về số báo này?
 
TYT: Đối với tôi, đây là một vinh dự rất lớn, được một tạp chí chuyên đề văn chương uy tín trong cộng đồng hải ngoại thực hiện ấn bản đặc biệt về mình. Tôi đã chọn những sáng tác ứng ý nhất, thơ cũng như văn, để in chung trong số báo dày gần 450 trang khổ lớn đó, với mong ước được bằng hữu và độc giả đón nhận như một món quà văn nghệ kỷ niệm.
 
NL:  Được biết ngoài cương vị một nhà văn, nhà thơ, ông còn là một nhà báo và hiện đang là Chủ bút Việt Báo, một tờ báo uy tín trong cộng đồng người Việt hải ngoại, do nhà văn Nhã Ca và nhà thơ Trần Dạ Từ sáng lập, đã góp mặt phục vụ cộng đồng từ trên 30 năm nay. Theo ông thì công việc của nhà báo có ảnh hưởng gì đến ngòi bút nhà văn, nhà thơ không? Nói cách khác, quan hệ tương tác giữa hai vai trò đó là gì?
 
TYT: Hiển nhiên, có những mâu thuẫn không tránh được giữa hai vai trò đó. Nhưng khách quan mà nói, theo tôi, đó là một quan hệ tốt, bởi vì nhà báo cung cấp chất liệu sống cho nhà văn, và ngược lại, nhà văn giúp nhà báo chú trọng đến chữ nghĩa hơn. Tác phẩm của nhà văn có thể sống dài lâu, ngay cả sau khi nhà văn đó qua đời, trong khi câu chữ nhà báo viết ra chỉ sống được một ngày là cao. Nhưng không phải vì thế mà nhà báo có quyền tùy tiện, muốn viết sao cũng được, không chú trọng đến nét đẹp của ngôn ngữ. Trách nhiệm của nhà báo cũng rất lớn, vì ngoài vấn đề thông tin, họ còn có trách nhiệm hướng dẫn quần chúng, làm đẹp xã hội, tìm đến công lý, v.v. Ở khía cạnh này, nhà văn đứng sau nhà báo. Rất hiếm người làm tròn cả hai nhiệm vụ đó một cách xuất sắc như Gabriel Gárcia Márquez.
 
NL: Ngoài văn chương và báo chí, ông còn có thú vui chơi nhạc? Cảm tưởng của ông về âm nhạc, nói chung, là gì?
 
TYT: Tôi luôn nghĩ âm nhạc là nghệ thuật sáng đẹp nhất của nhân loại. Âm nhạc là ngôn ngữ quốc tế như chúng ta thường nghe từ nhiều người xung quanh. Nhưng nó không chỉ vượt qua khía cạnh cảm xúc của trải nghiệm con người mà còn vượt qua cả cái ý thức hệ vốn chia rẽ chúng ta. Khi Hong Kong được vương quốc Anh trao trả lại cho Trung Quốc, khúc giao hưởng số 9 của Beethoven được trình tấu trong buổi lễ. Người Anh thân thiện bắt tay người Trung Quốc trong lúc tiếng nhạc của một người Đức vang lừng làm bè đệm những câu thơ của Schiller nói về một thế giới đại đồng. Âm nhạc quả đã đưa chúng ta lại với nhau, ít nhất là trong một khoảnh khắc, nó khiến chúng ta quên đi bản thân mình, quên đi niềm xác tín, thậm chí sự cuồng tín, mà chúng ta vẫn khăng khăng bám giữ xưa nay. Và biết đâu trong khoảnh khắc đó, chúng ta nghĩ lại, xác định lại vị thế của chúng ta trong thế giới đảo điên này.
 
NL: Những dự tính trong tương lai gần và xa của nhà văn, nhà thơ Trịnh Y Thư là gì? Ông có thể chia sẻ được chăng?
 
TYT: Tôi vốn là một “phu chữ”, một người dịch, một người đánh vật với chữ nghĩa. Nhà văn Phạm Thị Hoài, trong một email trao đổi thân tình, gọi tôi trước hết là một dịch giả, sau mới đến các thứ khác. Vì thế, trong tương lai gần tôi có dự tính dịch một cuốn sách của ông nhà văn James Joyce, một nhà văn được xem là khó đọc và khó dịch xưa nay. Còn tương lai xa thì tôi hoàn toàn không nghĩ tới. Ở tuổi tôi bây giờ, 72 niên, tôi không có chương trình dài hạn nào, mà chỉ biết làm hết sức mình được cái gì hay cái đó khi trái tim còn đập.
 
NL: Xin cảm ơn nhà văn, nhà thơ Trịnh Y Thư đã chia sẻ tâm tình của ông với Nhã Lan và quý khán thính giả của Hồn Việt TV. Xin chúc ông may mắn.
 
TYT: Cảm ơn chị Nhã Lan. Xin kính chào quý khán thính giả của Hồn Việt TV.
 
 
Ghi chú:
 
Cuộc nói chuyện thực hiện hôm 5 tháng 11 năm 2024, và phát hình lần đầu hôm 10 tháng Giêng, 2025 trên kênh truyền hình Hồn Việt TV. Độc giả có thể theo dõi cuộc nói chuyện trên YouTube:

 

Nhà văn, nhà thơ, dịch giả Trịnh Y Thư : Trăn trở về một “ý thức hệ” | TẢN MẠN VĂN HỌC - YouTube

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót. Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza... Nhìn thấy những hình ảnh kinh hoàng này, chúng ta mới nhớ rằng cả ngàn năm trước cũng đã có những cuộc chiến hoặc giành đất, hoặc thánh chính. Thời đó chưa có phi cơ, xe tăng, đại bác, súng... Và các chiến binh phải đi bộ, đi ngựa ngàn dặm để cầm gươm
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)
Nhã Ca sáng tác bài “Một Đoạn Nhã Ca” vào năm 1972. Trước biến cố lịch sử 1975, bà là một trong vài nhà thơ nữ hàng đầu ở Miền Nam Việt Nam, với dòng thơ mang những tứ thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ lãng mạn, ý niệm thể hiện và bênh vực giá trị của người nữ. Thơ Nhã Ca có thể gom vào hai chữ “dám nói.” Bài “Một Đoạn Nhã Ca” mở đầu bằng 9 câu, kết bằng 3 câu, và 111 câu thân, tổng thể là 123 câu, chia ra 15 đoạn. Nhìn một cách tâm lý, phải chăng 15 đoạn thơ này đại biểu một số điều cho một đoạn tiểu sử ngầm của Nhã Ca? Nói một cách văn vẻ, phải chăng có 15 cửa sổ để mở nhìn vào căn nhà bí ẩn của một nhà thơ nữ? Đây là bài thơ truyền đạt qua thể thơ tự do. Số chữ không đều trong mỗi câu. Số câu không đều trong mỗi đoạn. Số đoạn không có giới hạn trong bài. Sự so le và thoát khỏi ràng buộc này nói lên tình tiết diễn đạt qua thơ không bị tù túng, ý thơ không bị chật hẹp trong luật lệ. Phù hợp với cảm xúc thôi thúc, ngổn ngang của tác giả và tạo ra cảm giác kích động của độc giả
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh. Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này.
Krasznahorkai, trong các tiểu thuyết như Melancholy of Resistance hay Baron Wenckheim’s Homecoming, viết như người vừa chứng kiến ngày tận thế và vẫn phải tiếp tục kể, dù biết không còn có người nghe. Văn chương ấy, như James Wood nói, “vừa tuyệt vọng vừa kiêu hãnh, như một bản cầu siêu cho nhân loại.”
Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vừa từ trần vào lúc 10 giờ sáng ngày 14/10/2025 tại bệnh viện ở Nam California hưởng thọ 102 tuổi . Ông sanh năm Quí Hợi 1923 nên tính theo tuổi ta, ông thượng thọ 103 tuổi. Nhân đây, tưởng nhớ ông nên đắng lại bài viết Tác Phẩm Khu Rừng Lau Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vào ngày 5/11/2025
László Krasznahorkai – nhà văn Hungary vừa được trao giải Nobel văn chương – nổi tiếng với những câu văn dài như một hơi thở kìm nén, nơi ý tưởng đi qua địa ngục mà vẫn giữ vẻ điềm tĩnh của thiên thần. Một thiên thần lướt trên chúng ta là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy: giữa bùn lầy chiến hào và tiếng pháo rít xé trên đầu, một người lính cụt chân, mắt mờ, lại giảng về văn minh số, về văn hóa như bản năng sinh tồn của loài người. Chiến tranh vẫn gầm thét, nhưng lời anh vẫn tuôn, dài, sáng, và lạ thay – đầy hy vọng. Bản Việt ngữ của Ngu Yên dịch từ bản Anh ngữ của John Batki, giữ nguyên nhịp câu, những đoạn văn dài như dòng suy tưởng không dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.