Hôm nay,  

Lệnh Cách Ly Vĩnh Viễn

20/06/202500:00:00(Xem: 2076)
 
Rồi họ xa nhau. Rồi họ quên nhau. Phải chăng vì họ chưa cắt máu ăn thề?

***

Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.

“Anh làm gì đó?” Giọng thiếu nữ từ ngoài vọng vào.

Hắn giật mình, nói vội, “Anh tìm cuốn sách.”

“Khu vực cấm lai vãng mà.”

“Anh tìm cuốn sách.” Lập lại câu nói, nhấn mạnh chữ cuốn sách, hắn giải thích vòng vo, “Tối qua quên lấy cuốn sách, không có gì đọc, nằm hoài không ngủ được.”

“Sao anh không vào lấy sách ra đọc?”

“Khuya rồi, làm sao lấy?”

“À, lệnh cách ly vẫn còn hiệu lực.” Giọng reo vui, cô gái nhắc lại thỏa thuận giữa hai người. Hắn mỉm cười. Và hắn nhớ cái hợp đồng với lệnh cách ly mà hai người cùng soạn và cùng hứa sẽ tôn trọng tuyệt đối trước ngày cô ghé thăm.

Hắn đi vòng ra phía góc phòng. Một kệ sách nhỏ nằm lọt hẳn trong góc. Ngồi xuống ngắm nghía. Cái tật không bỏ được. Những cuốn sách quen thuộc, nhưng đi qua vẫn phải ngừng lại, tròn con mắt nhìn. Những ngón tay vuốt nhẹ trên những lưng sách.

“Anh ơi.” Giọng thiếu nữ ngọt ngào.

Lừng khừng vài giây trước tủ sách, hắn nhanh tay rút ra một cuốn. Lật đại một trang. Lẩm nhẩm đọc dòng chữ con mắt vừa bắt gặp. Hắn hay đọc như thế. Chỉ một câu thôi, như người ta bói Kiều.

Chợt tiếng thiếu nữ la hoảng bên ngoài. Hắn đứng bật dậy, “Em, sao vậy?”

Đáp lời hắn chỉ có tiếng suýt soa nho nhỏ. Hắn quăng cuốn sách lên giường, bước vội ra ngoài.

Mái tóc xõa ngang lưng. Người con gái đứng trong bếp, sát chậu rửa bát, bàn tay phải cầm chắc ngón tay trỏ của bàn tay trái. Hắn hấp tấp bước lại, trố mắt nhìn. Máu loang đầu ngón tay cô gái. Một giọt tròn đỏ tươi rụng xuống nền nhà.

“Đứt tay rồi!” hắn nói nhanh.

Đôi mắt nâu đen ngước lên nhìn hắn, “Tại con dao nhà anh đó.” Và cô xoay người, vặn vòi nước lạnh. Cô toan đưa ngón tay loang máu vào dòng nước, hắn đã vội nắm lấy cổ tay cô, “Khoan đã.”

“Để nước lạnh giúp máu đông lại,” cô nói.

“Biết rồi, nhưng chờ chút đã.”

Hắn buông lỏng cổ tay cô, mở cánh cửa tủ đựng ly tách, kiễng chân, vói tay lấy chiếc ly thủy tinh.

“Anh làm gì vậy?” Cô tròn mắt nhìn hắn.

“Chuyện này quan trọng.”

“Quan trọng?” Cô nheo mắt. Khóe cười thoáng hiện trên cánh môi. Chuyện gì liên quan đến cô hắn cũng kết luận ngay là quan trọng.

Đặt chiếc ly lên mặt kệ, một tay hắn cầm nhẹ cổ tay cô đẩy về phía miệng ly, tay kia bóp nhẹ đầu ngón tay bị đứt. Máu ứa ra ở vết cắt. Một giọt rụng vào lòng ly thủy tinh. Thêm một giọt nữa. Rồi hai ba giọt. Rồi cả chục giọt máu đỏ tươi rụng xuống đáy ly.

Cô thúc nhẹ cùi chỏ vào ngực hắn, “Hết máu là em chết đó.”

“Không sao đâu,” hắn trấn an cô.

Những giọt máu tụ dưới đáy ly thủy tinh. Màu đỏ của máu rực rỡ dưới ánh đèn néon trên trần căn bếp. Màu đỏ, màu của nhiệt tâm, của cố gắng vượt qua ngàn thử thách. Có đúng như hắn nghĩ không. Hắn bị những giọt máu của cô thôi miên. Màu đỏ làm hắn chóng mặt. Từ nhỏ hắn đã sợ cái màu chói chang ấy. Có lần nghịch dao, bị đứt tay, thấy máu hắn lăn quay ra xỉu. Nhưng hôm nay, bên cạnh một người con gái, hắn thành người khác.

Hắn nhẹ nhàng đặt chiếc ly vào sát vách tường. Hắn không muốn sơ ý gạt trúng. Ly vỡ không tiếc, nhưng sẽ tiếc những giọt máu hiếm hoi. Hắn nhẹ nhàng kéo cô về phía vòi nước chậu rửa chén bát, mở vòi nước lạnh, đưa ngón tay có vết cắt của cô vào dòng nước. Dòng nước đổ xuống đầu ngón thon, chẻ thành nhiều nhánh nhỏ, rụng xuống chậu nhôm. Hắn bóp nhẹ ngón tay cô. Máu bị nước cuốn đi, để lại đầu ngón tay màu hồng, và vết cắt gần một phân, rướm máu.

“Chờ một phút nha,” hắn nói và khẽ buông cổ tay cô để chạy vào phòng ngủ. Hắn lục những ngăn tủ ở đầu giường. Hộp băng keo trong đó. Hắn lấy miếng băng, tháo vội lớp giấy bọc ngoài. Rồi lấy thêm lọ cồn bảy mươi. Hắn ra với cô. Đổ cồn lên tay cô. Những ngón tay cô run rẩy vì rát. Nhịp run bàn tay cô chuyển qua những ngón tay hắn như nhịp rung cơn địa chấn mơ hồ.

Hắn đưa bàn tay cô lên sát mặt, thổi nhẹ cho dịu bớt cơn đau. Chờ cơn nhức buốt vơi đi, hắn dán miếng băng keo lên vết cắt đầu ngón tay cô. Hắn nắn nhẹ đầu ngón thon như gửi gắm một điều khó nói thành lời.

“Chừng nào mới khỏi hở anh?” Cô hỏi.

“Vài ngày,” hắn nói đại.

Cô buột miệng nói ra cái câu cả hai không muốn nghe, “Vài ngày thì em về mất rồi.”

Những con số đuổi bắt nhau trong đầu. Cuốn phim chiếu vội trên màn hình ký ức. Hắn lại hoang mang. Cô ở cách hắn một nửa vòng trái đất. Cô du lịch theo đoàn. Đoàn du lịch ghé Xứ Tuyết của hắn chỉ có bảy ngày. Mỗi ngày một thành phố. Bắt đầu là thành phố ở miền cực đông, rồi tới thành phố hắn, những ngày kế tiếp đoàn du lịch chuyển dần qua những thành phố ở phía tây. Ngày cuối, đoàn sẽ trở về thành phố này, rồi bay đi nước khác. Cô táo bạo xin tách rời khỏi đoàn khi tới thành phố hắn, và bỏ tất cả những thành phố còn lại ở phía tây để có với hắn những ngày mùa hạ hiếm hoi, khi đoàn về lại thành phố này, cô sẽ nhập lại với họ để bay đi xứ khác.

Hai người ngồi xuống, cạnh nhau, trên chiếc sofa cũ.

“Tưởng họ không cho vậy mà cuối cùng họ cũng chịu,” cô nói vu vơ.

“Cho chứ, vừa nhẹ bớt trách nhiệm, vừa bớt tốn kém cho họ...” hắn tiếp lời.

Cả hai cùng im lặng. Hắn hình dung đến lúc đưa cô ra phi trường. Phải nói lời chia tay như thế nào đây! Buồn chết được. Còn cô thì nhẩm tính xem hôm này đoàn du lịch của cô đang ở thành phố nào.

“Chắc hôm nay họ ở Calgary,” cô nói.

Hắn lặng lẽ gật đầu. Calgary là thủ phủ tỉnh bang Alberta, ở phía tây thành phố hắn.

Cô chợt hỏi, giả giọng khôi hài, “Còn mấy ngày nữa vậy ta?”

Hắn buột miệng, “Bốn ngày rưỡi.”


Cái im lặng chụp xuống quanh họ như tấm màn nhung. Dày và trĩu nặng.

Một lát, hắn cầm lấy cổ tay cô, “Bớt đau chưa?”

Cô khẽ lắc đầu, nhăn nhó, “Vậy là em vẫn chưa nấu được món tủ của em để đãi anh.”

“Không sao, mình đi ăn tiệm.”

Cô nhìn hắn, “Em muốn nấu ăn ở nhà. Du lịch theo đoàn, ngày nào cũng ăn nhà hàng, phát sợ!”

Im lặng. Đầu óc hắn khi không trống rỗng.

Cô xoay đầu, nhìn vào mắt hắn, “Em thèm không khí gia đình, dù chỉ có mấy ngày.”

Hắn hiểu điều cô muốn nói. Hắn cầm bàn tay cô lên, vuốt nhẹ lớp băng keo ở đầu ngón trỏ, “Để anh nấu.”

Cô nhìn hắn, mỉm cười. Cô biết hắn có thể nấu mì gói. Sống một mình, hắn lão luyện trong kỹ thuật nấu mì. Nhưng không còn muốn chọc ghẹo hắn chuyện nấu nướng, cô nhắc, “Còn cái ly… anh tính làm gì?”

Hắn giật mình, “Ô, nghĩ ngợi vu vơ mà quên bẵng đi mất.”

Hắn rảo bước về phía nhà bếp, cầm chiếc ly đưa lên ánh đèn. Máu trong ly sắp đông lại, bởi hắn thấy lớp màng mỏng dăng trên mặt.

Từ căn phòng khách nhỏ xíu, ngóng về phía nhà bếp, cô thấy hắn đặt cái ly lên bàn ăn, kéo hộc tủ, lấy ra con dao nhỏ có mũi nhọn.

“Anh làm gì vậy?” Cô hỏi.

Hắn đáp lời cô bằng cái nheo mắt.

Dưới ánh đèn néon trắng xanh, cô thấy hắn xịt an côn lên đầu ngón tay, rồi nhắm chặt hai mắt, và bằng một động tác dứt khoát, hắn đâm mạnh mũi dao vào đầu ngón tay mình. Cô thấy miệng hắn há hốc rồi ngậm ngay lại. Và hắn rùng mình như con bệnh lên cơn sốt rét. Tiếng rên rỉ nho nhỏ vọng lại chỗ cô ngồi, nghe như tiếng thì thầm. Hắn buông con dao xuống, bóp chặt đầu ngón tay, nặn cho máu ứa ra. Hắn đặt đầu ngón tay lên trên miệng chiếc ly thủy tinh. Và hắn bóp mạnh đầu ngón. Những giọt máu đỏ tươi ứa ra ở vết cắt, to dần, rồi rụng xuống đáy ly, lẫn vào lớp mỏng đỏ sậm của máu cô.

Hắn run rẩy nặn đầu ngón tay, cho những giọt đỏ tiếp tục ứa ra, rụng xuống lòng ly.

Rồi hắn ngước lên nhìn cô. Trong phòng khách, trên chiếc sofa cũ màu xám nhạt, cô nghiêng đầu, tròn mắt, nhìn hắn. Cô không hiểu hắn đang làm gì nhưng cô bị thu hút bởi hành vi lạ lẫm của hắn.

“Anh làm gì ghê vậy?” Cô hỏi, khi không còn nén được sự tò mò.

Hắn lặng thinh nhìn quanh bốn vách tường. Hắn thấy đầu mình nhẹ bâng và dường như mọi vật đang sắp sửa bị cơn gió vô hình nào đó cuốn đi. Những vách tường màu vàng nhạt bỗng sậm màu, như vừa được phết lên một lớp sơn mới. Hắn thấy hình ảnh cô cong cuốn như hình phản chiếu trên tấm gương có mặt không phẳng đều. Rồi nét ngạc nhiên trên mặt cô loãng đi như cánh diều phất phơ trong gió. Trần nhà võng xuống, những chân ghế sofa dài ngoằng. Bàn ghế xô lệch, chuyển động chung quanh hắn. Trời đất tối sầm, hắn lảo đảo quơ tay tìm vật gì đó vững chãi để bám vào. Chân hắn tuột ra ở hai đầu gối, cánh tay hắn lỏng lẻo, gạt trên mặt bàn. Hắn chợt nhớ từ ngày còn bé hắn đã sợ máu. Hắn thấy hai mắt cô mở càng lúc càng lớn, như những vòng sóng lan rộng trên mặt hồ. Hắn đổ sầm xuống sàn nhà cùng tiếng thủy tinh vỡ ngọt và tiếng la phập phều trong không khí một giọng nữ mà ngôn từ nhùng nhằng dính cứng lấy nhau.

Hắn mở mắt. Không gian mờ tối mở ra khoảng trần nhà màu trắng. Vật gì đó nặng nề chặn ngang lồng ngực. Hắn quơ tay mò mẫm tìm để gỡ cái vật nặng nề ấy xuống. Một cánh tay rất mảnh. Và hắn nhớ ra đó là cánh tay cô. Trí nhớ như cơn gió lùa nhanh qua khung cửa sổ tâm tư. Hắn nghe giọng ngọt ngào của cô, “Anh tỉnh dậy rồi.” Bàn tay mát lạnh đặt lên má hắn, vuốt nhẹ, “Làm em sợ quá.”

Từng mảnh vụn trí nhớ theo nhau dạt về. Hắn hít một hơi dài, hai tay cầm lấy bàn tay mềm mại của cô.

“Hết đau chưa?” hắn hỏi.

“Hết rồi,” cô nói.
Hắn nhìn bàn tay mình. Ngón tay trỏ hắn viền lớp băng keo quanh đầu ngón. Hệt như bàn tay cô. Hắn chống tay cố ngồi dậy, nhưng đầu hắn nặng trĩu. Hắn nghĩ nếu cứ cố nhổm dậy, cái cổ không mang nổi cái đầu nặng như đá tảng, sẽ gẫy gập.

“Định đi đâu vậy?” cô hỏi.

“Ra phòng khách... Lệnh cách ly...” hắn lẩm bẩm nhắc điều hai người thỏa thuận. Cái lệnh ấy truyền rằng cô sẽ ghé thăm, và hắn nhường cho cô phòng ngủ của hắn. Lệnh ấy cũng phán rằng hắn không được vào phòng lúc cô ở đó. Lệnh cách ly. Cái thỏa thuận không ghi trên giấy nhưng hiệu lực vô song.
Cô ấn cho hắn nằm xuống. “Nghỉ ngơi, lo dưỡng bệnh đi kìa.”

Hắn mỉm cười, rồi sực nhớ, nhỏm dậy, thì thầm, “Cái ly đâu rồi?”

“Vỡ rồi!” Cô cũng thì thầm vào tai hắn.

Hắn hốt hoảng, “Vỡ thật à? Sao lại vỡ vậy?”

“Lúc xỉu, anh gạt cái ly rơi xuống đất...”

Hắn hụt hơi. Rồi hắn than thầm, “Chết rồi! Thế còn...”

“Em bỏ rác hết rồi...” cô nói.

“Máu hai đứa mình,” hắn tiếp, đầy tiếc nuối trong giọng nói.

Cô vuốt ve trán hắn. Hắn nằm im, nhắm mắt tận hưởng phút giây hạnh phúc. Chỉ còn bốn hôm nữa thôi, cô sẽ về lại quê nhà. Hắn ở lại chốn này. Một mình. Bỗng dưng nỗi buồn vồ lấy hắn. Nghĩ đến lúc đưa cô ra phi trường. Cô nhập vào đoàn người đi cùng chuyến. Hắn đứng nhìn cô xách túi hành lý đi qua trạm kiểm soát quan thuế, rồi bóng cô mất hút sau khúc quanh. Bỗng dưng lồng ngực hắn thắt lại.

“Mà anh lấy máu làm gì vậy?” Câu hỏi của cô vực hắn ra khỏi vũng buồn.

Hắn ngập ngừng, “Mình cắt máu ăn thề...”

Cô chớp mắt. Hắn nhìn lên trần nhà. Chất màu trắng ngả qua xám nhạt cào xé hai con mắt. Hắn lẩm bẩm, “Vậy xem như lỡ lời thề.”

Cô tròn mắt nhìn hắn. Đôi mắt đẹp. Mắt trẻ thơ. Cái mụn ruồi trên khóe môi luôn hé nở nụ cười. Đôi mắt ấy, đôi môi ấy, cái mụn ruồi và cả chiếc răng khểnh kia nữa, như chân dung trọn vẹn của hạnh phúc, đang cận kề bên hắn. Vậy mà có lúc phải chia xa.

Hắn cố chống tay ngồi dậy.

“Đi đâu vậy?” Cô hỏi.  

“Ra phòng khách...”

“Chi vậy?”

“Khuya rồi… Với lại… lệnh cách ly…” Hắn bỏ dở câu nói.

Lặng thinh. Cả hai người. Một lát, cô thì thầm, “Anh tính cắt máu ăn thề bằng cách nào?”

“Thì pha rượu với máu hai người. Em rành kiếm hiệp mà còn hỏi.” Rồi sực nhớ mình không bao giờ uống rượu, hắn chữa, “Pha cà phê thay cho rượu.”

“Thấy máu thì xỉu mà cứ nhất định cắt máu ăn thề,” cô cằn nhằn.

“Sợ lạc.”

“Đi đâu mà lạc?”

“Lạc mất nhau.”

Cô lặng thinh.

***

Rồi cô về lại quê nhà. Hắn ở lại, tiếp tục thân viễn xứ. Rồi họ xa nhau. Rồi họ quên nhau. Lệnh cách ly bỗng dưng có hiệu lực vĩnh viễn. Cũng chỉ vì chưa kịp cắt máu ăn thề. Bao nhiêu năm sau, hắn vẫn tin chắc như thế.
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.