Hôm nay,  

Trại Giam Miệt Thứ

01/08/202500:00:00(Xem: 2401)

Miet thu               
 
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
       
Gần một giờ khuya, chiếc xe công an bít bùng mới đến chở tôi cùng hai người phụ nữ khác bị bắt cùng trạm, rời huyện Tân Hiệp. Hầu như chín chục phần trăm bạn hàng các tuyến đường miền tây tôi gặp hoặc lấy mối, đều là đàn bà con gái. Điều chúng tôi lo ngại, là từ lúc bị bắt đến giờ, không ai còn thấy lại hàng hoá bị tịch thu của mình. Vả lại, cũng chưa thấy ai gọi tôi lên ký biên bản xác nhận mặt hàng như mấy lần trước. Lợi là chúng tôi có thể chạy chọt thêm để được thả vì chưa có chứng từ gì bị bắt hoặc tịch thu hàng lậu. Nhưng ngược lại, coi như tất cả hàng hoá, tài sản đó sẽ không bao giờ "châu về hiệp phố” với chủ nhân nữa. Mắt phải tôi giật mấy lần, nam tả nữ hữu, linh tính báo điềm không tốt. Mà đằng nào thì cũng mất, miễn đừng tật mang, là còn cơ hội làm lại bàn khác. Thời nầy biết đâu mà mò, nhằm nhò gì, thua me thì gở bài cào... Đầu óc căng thẳng, thân thể rã rời, nhưng tôi cố quan sát tình hình chung quanh. Hai người đàn bà kia thì đã ngủ gà ngủ gật, trong xe chỉ còn tôi và một tên công an ngồi hút thuốc, canh hờ ở cuối xe. Chắc hắn cũng không hồ hởi gì giờ nầy, gần Tết trời lạnh phải giải “không công” mấy mụ con buôn về tỉnh thì chán mớ đời. Chợt nhớ ra, tôi vẫn còn sợi dây chuyền mặt cẩm thạch hai chỉ rưởi nhét trong quần lót mà từ chiều lu bu chúng chưa lột tới. Mấy món nầy sẽ là “quà cáp” các anh để tôi được về nhà cho kịp đưa ông táo. Hy vọng là vậy để chút yên lòng... Đôi mắt tôi khô cứng nặng chì và, không còn đủ ý thức cưỡng bức chính mình được nữa, tôi gục đầu thiếp đi.
          
- Xuống..! Thức dậy, xuống xe!
           
Tôi bừng tỉnh. Tấm bạt xe mở tung, gió đêm lùa vào lạnh căng. Tôi bước xuống, định thần nhìn quanh. Hình như là cuối dãy nhà lồng chợ, chắc chắn không phải là khám lớn của tỉnh. Tôi hỏi nhỏ chị đồng hành:

- Đây là đâu vậy chị.

- Chợ Rạch Sỏi. Không biết tụi nó làm gì mình đây.
           
Nghe nói tôi cũng chột dạ. Đêm tối cuối năm, lạy trời đừng đúng theo những gì đang diễn ra trong đầu tôi. Hảm hiếp rồi giết liệng trôi sông, nào ai biết, lại hốt trọn đống hàng không chứng cớ. Thiệt là nhất cữ mà tam tứ tiện.
           
- Mấy chị theo tui.                                            
       
Một thằng công an rọi đèn pin về phía trước, thằng khác phía sau hất mũi súng ra dấu. Chúng tôi yên lặng bước theo hướng vào trong chợ, lòng hoang mang. Đi một khoảng đường ngắn, vừa khỏi chợ là đến bến đò. Bây giờ chúng tôi chợt hiểu phần nào sự việc xảy ra. Thay vì đưa về khám lớn tỉnh, chúng tống thẳng chúng tôi về trại tù miệt thứ.

- Mấy anh đưa chúng tôi đi đâu đây?
           
- Tù, chớ đi đâu. Buôn hàng cấm tội như phản động, tù cải tạo cho biết.
           
Chúng trả lời mỉa mai. Dưới bến, chiếc đò máy và hai thằng công an khác đang đợi sẵn. Thế là hết, tam thập lục kế đến nước nầy chỉ còn "nhắm mắt đưa chân", tới đâu xâu tới đó. Chiếc đò máy rời bến, thằng công an áp tải đứng trên vẫy tay:

- Chúc mấy chị về thứ bảy ăn Tết vui vẻ.  
        
Mình mẩy con nhỏ nóng như lửa đốt. Từ hôm qua đến nay, Bé Năm ăn gì ói nấy. Tôi đưa nó lên trạm xá xin thuốc, thằng y tá nói nó làm bộ để trốn lao động, đuổi ra. Tội nghiệp con nhỏ, mặt mày xanh lét chỉ biết khóc. Nhìn Bé Năm nằm run rập cập, trán đẩm mồ hôi, tôi chịu không nổi. Đằng nào cũng phải chờ ra giêng, đút lót tụi nó giờ nầy cũng vô ích. Mấy thằng cán bộ lãnh đạo trại đã về hết gia đình ăn tết với vợ con, còn lại là đám canh tù ‘đầu trâu mặt ngựa’, tép riu. Hầu hết phạm nhân của trại tù cải tạo nầy là gia đình chủ tàu tổ chức vượt biên, lươn lận thụt két quỹ nhà nước, sử dụng giấy tờ đi đường hay công lệnh giả và vượt biên bị bắt. Buôn gian bán lận hàng quốc cấm như tôi là trường hợp đầu tiên, đặc biệt. Bé Năm ở đây đã hơn bốn tháng, tội vượt biên, đến nay cũng chưa xét xử hay đá động gì tình trạng của nó.Còn như tôi nghe đâu một hai tháng là cùng, nếu biết cửa mà nhờ. Thì tái ông thất mã, bị bắt nhưng vào những ngày cận Tết nên cũng đở, lao động cầm chừng và chưa được đám quản giáo chăm sóc tận tình theo đúng lệ tù non. Chớ nghe đâu luật ‘tù non’ phải lao động tiên tiến ban ngày và học tập cách mạng cá nhân với quản giáo tới nửa đêm gà gáy.
           
Tôi kéo cái mền của mình đắp thêm cho nó. Thôi thì đành, tôi vừa bán chiếc nhẩn chỉ rưởi ‘giá cán bộ’, định để xài nhín nhín phòng than, chờ liên lạc gia đình. Tôi cắm đầu đi lên trạm xá để gặp thằng cán bộ y tế lần nữa. Sau khi ngả giá, lục lọi một hồi nó đưa tôi được chục viên aspirin và một chai thuốc ‘thần dược’ dân tộc xuyên tâm liên. Tính ra hơn nửa chỉ vàng. Mà thà vậy, chớ ở tù miệt nầy có vàng chưa chắc gì mua được thuốc. Tôi rẽ vội xuống chái hậu cần ‘xin’ cán bộ Ánh, chị nuôi láng nữ, một chén nước cơm nóng và mấy miếng đường thẻ. Chị người ở Gò Quao, cha mẹ bị bom bừa chết sớm, làm giao liên cho cách mạng từ lúc mười một mười hai tuổi. Đến năm mười tám, đảng gả chồng cho chị, du kích của huyện.Chưa được một năm, chị trở thành vợ liệt sĩ. Từ đó chị Ánh đi từ bếp lửa cách mạng nầy đến vùng tiếp vận lửa khói khác, người chị nuôi hậu cần bất khuất của vùng quê hương Rạch Giá.Hòa bình, không như bao nhiêu người khác, chị không có nơi nào để trở về mừng ngày đoàn tụ hay vinh quang công trạng của tổ chức. Chị Ánh tiếp tục cuộc đời còn lại của tuổi thanh xuân bên những bếp lửa  cách mạng, chỉ khác không còn dưới tầm bom đạn mà dưới sự cắt chia từng khẩu phần của cơ quan. Cuối cùng với công trạng gia đình liệt sĩ, chị được tổ chức phân công về công tác hậu cần cho trại tù cải tạo ở thứ Bảy nầy. Mới ngoài ba mươi, tôi đã thấy trán chị hằn những vết nhăn khốn khổ và đôi mắt chợt lắm khi vô hồn với những ánh lửa chung quanh. Nên chừng như trong đám đảng viên, cán bộ quản giáo ở đây chỉ có chị là còn sót lại chút thương cảm tình người... Trở lại láng tôi vẫn thấy Bé Năm còn thiêm thiếp. Đỡ dậy uống hai viên aspirin, tôi dục nó uống chén nước cơm nóng quậy đường thẻ, lấy sức. Nhìn khuôn mặt nhỏ nhắn, trẻ thơ của Bé Năm thật tội nghiệp. Tôi chỉ lớn hơn nó hai tuổi mà trông tôi già dạn hơn nhiều. Da tôi ngâm đen, tóc tai lùng bùng cháy nắng, ngược lại Bé Năm da dẻ trắng xanh, tóc đen óng mượt mà từng lọn. Nhớ lại đêm mới giải xuống, mình không, Bé Năm chia với tôi góc mền cái gối. Ở đây cái gì cũng tự túc. Chưa biết gì nhau mà nó đã không ngần ngại nhường tôi tất cả những đồ dùng cần thiết hằng ngày, nhất là phụ nữ. Khác với tánh lanh chanh, lợi ít hại nhiều của tôi, tánh Bé Năm lặng lẽ, ít nói nên tôi cũng không biết nhiều về nó. Nhưng nhìn tay chân, mặt mũi và dáng dấp ‘liễu yếu đào tơ’ của Bé Năm, tôi đoán chắc nó con nhà khá giả hay ít ra cũng chưa đến nổi, “vào trong kim chỉ ra ngoài mách mung” như tôi.

- Em mang ơn chị nhiều quá. Không có chị không biết ra sao...

- Ơn nghĩa gì. Chị em cùng cảnh ngộ mà. Thôi ráng ngủ chút đi, Dinh lén để dành chút cháo, dậy ăn.

- Cô Dinh à, vịt làm rồi nè.
           
Tiếng của Ánh, chị nuôi hậu cần, tôi ra dấu cho Bé Năm nằm nghỉ, rồi bước vội về phía chái nhà bếp. Sở dĩ tôi được thong thả ở láng chăm sóc Xuyến là nhờ tài nghệ làm tiết canh của tôi, nhất là món tiết canh vịt. Món mà ngày xưa cha tôi đánh nổi tiếng cả đơn vị và truyền lại cho tôi. Vừa đến trại giam hai ngày thì ban quản giáo lên kế hoạch mở tiệc liên hoan cho ban lãnh đạo trại và mời cả bên huyện ủy. Bí thư trưởng ban quản giáo, đồng chí Ba Thái,  dân miệt Hòn rất thích nhậu đế trắng với món tiết canh vịt mà mấy năm nay chưa ai làm hài lòng tên nầy. Để lấy lòng đồng chí bí thư, ban quản giáo họp toàn trại để tìm "nhân tài" cho món tiết canh. Điều kiện thật khó lòng từ chối, miễn lao động cho tới hai tuần lễ sau tết. Nhưng nếu làm liều ‘đánh’ láo, hư dĩa tiết canh thì lao động gấp đôi và không được nhận đồ thăm nuôi một tháng. Vì vậy mà cả ba láng tù không một bàn tay nghĩa khí đưa lên! Tôi đứng lên tình nguyện, lãnh phần. Ngay hôm sau chúng giao tôi một con vịt xiêm làm thử. Dĩa tiết canh được đám quản giáo chiếu cố một cách tận tình, vét sạch đến không cần rửa. Đồng chí bí thư đích thân khen ngợi và ủy lạo tinh thần tôi, chuẩn bị cho bửa tiệc liên hoan với huyện ủy chiều hai mươi chín tết.
           

Buổi chiều cuối năm trời lạnh hiu hiu, lay lắt gió. Bên trong hội trường, tiếng cười nói ồn ào của đám cán bộ và quản giáo. Tất cả là hai con chó mực và sáu con vịt xiêm lớn nên mùi thức ăn thơm lừng cả mấy láng trại. Rãnh tay chờ dọn dẹp, Xuyến rủ tôi ra phiá sau nương láng bếp ngồi nghe hương vị tết. Con nhỏ bảo tôi nó mê ca sĩ Duy Khánh là vì bài "Xuân Nầy Con Không Về" và khe khẻ hát từng đoạn rời rạc, câu nhớ câu không. Rồi tự nhiên Bé Năm yên lặng một hồi lâu, chợt quay qua hỏi tôi, quê chị Dinh ở đâu. Câu hỏi bất ngờ của nó làm tôi chưng hửng. Quê tôi ở đâu kìa? Trong khai sanh, tôi sinh ra ở một làng nhỏ thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long. Sau đó, tôi nhớ ngờ ngợ mình ở con hẻm nhỏ đường Phan Đình Phùng, gần chợ Bàn Cờ. Nhưng, thời thơ ấu đậm đà trong tôi là những ngày tháng sống ở căn nhà mướn trong cái xóm chuyên làm kẹo mạch nha, đường phổi bên lộ Quang Trung, thị xã Quãng Ngải. Cha tôi lúc đó là sĩ quan truyền tin của sư đoàn 25 bộ binh, đóng ở Mộ Đức. Tôi bắt đầu cắp sách đến lớp mẫu giáo ông giáo Thống được vài tháng thì vào trường nữ tiểu học, cạnh tiểu khu thị xã. Không hiểu sao cái xóm tôi ở không có con gái nên tôi chơi bạn toàn là con trai. Bắn đạn, tạt lon, hớt cá lia thia... đến tắm sông tôi đều rành rọt. Tôi biết lặn, lội sảy, lội chó cũng tại dòng sông tuổi thơ Trà Khúc. Được đâu vài năm, cha tôi lại theo đơn vị chuyển về miền nam, huyện Đức Hoà, Đức Huệ gì đó. Rồi cũng chẳng bao lâu, ông sang tiểu đoàn khác về thị xã Vị Thanh, tỉnh Chương Thiện cho đến ngày giải phóng. Dòng kinh xáng Sà-No chảy lững lờ dọc thời con gái của tôi... Nên tôi không biết trả lời Bé Năm thế nào, quê tôi ở đâu. Nghe tôi kể một hơi, con nhỏ cũng chẳng hiểu đâu vào đâu, thôi không thắc mắc nữa. Còn Bé Năm, tôi hỏi, quê ở đâu? Từ hồi mẹ đẻ đến giờ Bé Năm chỉ ở Vàm Răng, chưa lần nào ra khỏi tỉnh, nó trả lờI nhát gừng rồi không trả lời gì thêm. Quên tánh ít nói của nó, tôi cũng yên lặng nhìn bâng quơ buổi chiều cuối năm đang chìm dần phía sau những rừng tràm thăm thẳm tầm mắt. Chợt Bé Năm buông tiếng thở dài, từng đợt, như cố ngăn nhưng không kiềm chế được. Nỗi im lặng đồng lõa với nỗi lòng trĩu nặng chung quanh. Hai mươi chín tết, đêm chìm nhanh, lạnh đen trong hương đất trời trừ tịch. Không biết giờ nầy bên ngoài ra sao, mẹ tôi chắc đang ngồi buồn cho đứa con gái sinh ra nhằm tuổi ngọ ‘ nên suốt đời cất vó chạy rong’. Có bàn tay mềm lạnh, xiết nhè nhẹ mấy ngón tay tôi. Khuôn mặt Bé Năm chỉ còn là một khung soan nhàn nhạt. Thân hình nhỏ rung từng đợt, gục hẳn vào vòng tay tôi, mềm mại. Trên đôi vai khô gầy, tôi nghe thấm âm ấm giòng nước mắt nấc nghẹn của Bé Năm. Con ngựa đầu non chừng như cũng nức nở, ngỡ ngàng. Khóc đi nhỏ, cho nhẹ mọi nỗi lòng.Nước mắt nhỏ, nước mắt tôi dù lẻ loi, cũng sẽ chảy mặn biển đời.
           
- Chị Dinh, em có điều rất hệ trọng muốn nói với chị. Mà không, em muốn nhờ chị...

- Nói đi Bé Năm. Lúc nào Dinh cũng sẵn lòng mà.
           
Bé Năm nặng nề cố nuốt từng nỗi nghẹn ngào, khô khan. Thỉnh thoảng, những tràn cười nói vọng vào đêm tịch mịch, từ trong hội trường sáng rực đèn ‘măng-xông’, như giục giã giây phút còn lại. Bé Năm khẻ hắng giọng và lau mắt đôi lần. Giọng nó dứt khoát và tỉnh táo hơn:
           
- Em tên thật là Tiên, Võ Thị Tiên. Bé Năm là tên ở nhà... Một năm trước đây, người bạn nối khố với ba em ghé thăm, thấy em, liền đánh tiếng hỏi mối mai cho con trai của chú. Anh ấy tên Trọng, trung úy pháo binh, sau bốn năm cải tạo giờ còn đang quản thúc ở địa phương. Chú có cho em và gia đình bức hình chụp đã lâu của anh ấy. Trong hình ảnh còn trẻ và hiền lắm. Gia đình đồng ý ngay. Phần em, lòng cũng không phản đối gì. Những ngày tháng hỗn loạn đó, làm thân con gái, chỉ mong có một nơi yên lấy bản thân... Thời gian sau, anh ấy bị chính quyền địa phương bắt đi lao động cải tạo trở lại. Gia đình quyết định tìm mối tổ chức đưa anh Trọng và em đi vượt biên. Bể ổ, cánh em bị bắt, cánh ảnh thoát được... Bắt giải về đây thì em bị thằng quản giáo cưỡng hiếp, chiếm mất đời con gái. Nghiệt ngã thay, em đã mất kinh và có dấu hiệu mang thai với thằng khốn nạn đó. Với anh Trọng, đời em đã chết. Em không còn xứng đáng với anh ấy nữa. Nhưng tấm lòng em, tình cảm em vẫn thuộc về anh. Em muốn nhờ chị thay em đáp lại mối nợ tình nầy.
       
Tôi chưng hửng, cố giương mắt nhìn khuôn mặt trẻ con của Tiên, tên thật của Bé Năm, mờ nhạt trong đêm tối. Tiên nhờ tôi, bằng cách nào? Tại sao? Tôi rùng mình liên tục, từng cơn lạnh chạy dọc theo cơ thể. Nhớ lại những ngày qua, Tiên ói mửa liên miên, nóng lạnh từng hồi không phải bệnh hoạn gì, mà là triệu chứng cấn thai. Tôi chưa biết phải nói gì, phản ứng thế nào cho đúng, thì Tiên tiếp tục giọng thật rõ ràng, chậm rãi:
          
- Chị có thể từ chối và quên đi những điều em chuẩn bị nói cho chị. Mới biết chị, nhưng thờI gian ngắn ngủi qua linh tính báo em chị là người tốt, có tình có chung. Gia đình anh Trọng vừa móc mối một chuyến đi nữa cho em, bây giờ là cho chị. Chị Dinh hiểu em nói gì, phải không chị? Trưa mai lúc mười một giờ, chị ra phía sau hội trường, có người đàn ông đợi ở đó. Câu tín hiệu, chị hỏi "anh là con chú Sáu Vĩnh ở chợ Vàm Răng", trả lời "dạ phải, em đây" và người đó sẽ giúp chị trốn trên chuyến đò cuối cùng về Rạch Sỏi lúc bốn giờ chiều. Tới bến đò Rạch Sỏi, chị sẽ chuyển qua vỏ lãi đi về Vàm Răng và xuống ghe lớn đợi sẵn ngoài đó... Nếu mọi chuyện trót lọt, xin chị thay em để đi chung với anh ấy. Chỉ có vậy. Thời gian còn lại quá ngắn mong chị cho em biết quyết định ngay... Mà dù thế nào, em cũng cảm ơn chị trước.
           
Tai tôi vẫn chưa tin là sự thật. Cứ như giấc mơ, như trong tiểu thuyết mà tôi đọc đâu đó ngày xưa. Nhưng không, Tiên đang ngồi bên tôi bằng da bằng thịt và sương đã bắt đầu rơi thấm lạnh bờ vai.

- Sương xuống nhiều cảm chết, mình vô trong đi em...
- Chị Dinh nhận lời của Tiên?
- Chị nhận lời. Nhưng còn chuyện anh Trọng, chị...
- Chị nhận lời là được rồi. Mọi chuyện khác sẽ đến sau, chị đừng lo. Tiên cảm ơn chị và chúc chị nhiều may mắn.
           
Nói xong Tiên đứng dậy, đi thẳng về láng. Tôi nán ngồi lại một mình bên bờ mương, lòng mộng du, chơi vơi như đi giữa sợi chỉ định mệnh mong manh của cuộc đời. Bên kia hội trường, bữa tiệc rượu vẫn chưa tàn trong đêm cuối năm trừ tịch.
 
           
...Tôi đã làm đúng theo lời chỉ dẫn nhưng không giữ đúng lời hứa ân tình với Tiên. Gặp nhau ở Vàm Răng, tôi đã nói thật hết lòng và nghịch cảnh của mình với Trọng. Thà là nhìn Trọng đớn đau trong sự thật còn hơn lừa dối tấm chân tình tha thiết một đời của anh. Mọi việc không ‘ghê gớm’ như tôi tưởng. Chừng như trong cơn sóng dữ của đất nước, vết thương của mỗi cá nhân như những hạt mưa bụi nhỏ nhoi cuốn hút theo dòng đời thác đổ chung quanh. "Cảm ơn Dinh đã cho anh biết thế nào là ý nghĩa của tình yêu, tình người và lòng chân thành của tình bạn", Trọng đã nói với tôi khi hai đứa ngồi nhìn những vạt nắng chiều, chìm tắt dần trên mặt biển. Xa xa là hòn Tre, nơi mà ngày mai là chuyến tàu định mệnh và tôi đáp khẻ, " lẽ ra Dinh mới là người nói cảm ơn anh và Tiên đã cho Dinh được ‘quá giang’ trong giòng duyên nghiệp nầy". Trọng chỉ cười buồn, nhìn xa xăm và không nói gì hơn. Đó là lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng. Trọng không thể của tôi, và ngược lại, tôi không thể nào của Trọng được. Đành lòng tôi phải lỗi hẹn với Tiên. Rồi nhỏ sẽ tha lỗi cho tôi, nghe nhỏ... Trọng đã tiễn tôi ra khơi cùng chuyến hải hành nhưng anh thì ở lại. Thái độ lựa chọn của Trọng thật rõ ràng, vì Tiên, vì trái tim anh mãi mãi thuộc về dòng kinh nước mặn của Vàm Răng. Làm sao tôi quên được cái vẫy tay của anh trên chiếc ghe nhỏ, khuất mờ dần trong màn sương lần tiễn biệt.
        
- Tiên, nhỏ ơi, trong mọi nỗi tận cùng khổ đau hay tuyệt vọng, tình yêu vẫn luôn luôn có thật giữa đời nầy...
 
                                                            &         &         &
 
Định cư tại Hoa Kỳ tôi đã cố gắng tìm mọi cách liên lạc với Trọng và Tiên. Nhưng rồi thời gian cứ lặng lẽ trôi qua mà tin họ vẫn mù tăm, vô vọng. Cuộc sống của xã hội mới cuốn hút tôi vào như cơn lốc nhỏ. Hình ảnh của Tiên, của Trọng cũng mờ dần theo năm tháng. Nhiều lúc tôi thẫn thờ chợt nghĩ ra rằng, có những cuộc đời, những khuôn mặt người chỉ một lần thoáng qua rồi sẽ mãi mãi không bao giờ gặp lại. Họ đi về đâu, cuộc sống ra sao, câu hỏi chừng như thật đơn giản mà câu trả lời bí ẩn, to lớn biết chừng nào. Thỉnh thoảng trong giấc mơ, tôi vẫn thấy khuôn mặt trắng xanh với nụ cười thật trẻ thơ của Tiên và bàn tay vẫy khuất mờ của Trọng...
               
Tôi trở lại Vàm Răng sau gần hai mươi năm xa cách. Tất cả cũng không có gì thay đổi nhiều. Lần mò hỏi thăm tôi mới biết gia đình Trọng Tiên không còn ở đây nữa. Nghe đâu họ đã dọn về hòn Tre (hay còn gọi là hòn Rùa) sinh sống. Tôi vội vã bao tàu máy đi ra hòn Tre... Và trước mặt tôi là người đàn ông tóc hoa râm, da sậm đen ngồi vá những mảnh lưới rách chung quanh. Qua ánh mắt, tôi biết đây là Trọng. Người đàn ông nhìn tôi rồi bừng lên nỗi vui mừng: "Cô... Cô Dinh, phải hông?". "Anh Trọng. Em là Dinh đây anh!", chỉ chừng ấy tôi nghẹn lời, không nói gì thêm được. Chính giữa căn nhà đơn sơ, bề bộn những tấm lưới dọc ngang là chiếc bàn thờ có hình người con gái trẻ nét mặt ngây thơ, quen thuộc. Tôi nhìn sững sờ rồi nhận ra ngay đó là Tiên, Võ Thị Tiên. Bao nhiêu xúc động kềm chế chợt vỡ òa, tôi gục đầu khóc nức nở.
           
Trọng chậm rãi kể lại tôi nghe tất cả câu chuyện sau khi tôi rời trại giam miệt Thứ và ra đi... Bào thai đã bắt đầu đội bụng, Tiên hỏi thăm mấy cô bạn tù lớn tuổi để tống cái thai oan nghiệt trong bụng. Một bà hậu cần đã chỉ và tìm giúp Tiên loại cây thuốc phá thai rất phổ biến trong dân gian. Đó là loại lá cây cau trời hay còn gọi là cây chó đẻ. Lá cây chó đẻ vò nát, ăn sống ba lần là có tác dụng tống thai ngay. Tiên đã làm theo và kết quả là trúng độc, chết cả mẹ lẫn con. Đám cai tù trại giam dấu kín chuyện có thai chỉ báo gia đình Tiên bệnh nặng qua đời. Sau đó Trọng cùng người em họ dọn ra hòn Tre sinh sống bằng nghề vá và đan lưới qua ngày. Tuy chưa cưới hỏi nhưng Trọng mang theo di ảnh và lập bàn thờ cho Tiên, như vợ mình.
           
Câu chuyện cứ tưởng chừng như một giấc mơ. Một giấc mơ có thật cho đời người trong xã hội đầy áp bức, bất công. Tôi không thể thay đổi được gì, chỉ nuốt từng giọt nhớ thương người bạn tù đã mất; cố gắng giúp Trọng xây lại ngôi nhà và một số vốn nhỏ để anh thay đổi phần nào cuộc sống. Mỗi người một số phận, có khi buột chặt vào nhau, có khi lặng lẽ trôi bên nhau trên cùng mặt phẳng cuộc đời. Nhưng trong tận cùng kiếp nhân sinh khổ ải, tôi vẫn còn nhìn thấy tấm lòng, tình yêu có thật. Tấm lòng cao quý của Tiên dành cho tôi. Tình yêu ngời sáng của Trọng dành trọn vẹn cho Tiên. Hình ảnh tối tăm của trại giam miệt Thứ không giết chết được tình người, không giết chết tính nhân bản của chúng ta. Tình yêu của tôi dành cho Tiên, cho Trọng và cho quê hương vẫn luôn mãi mãi rạng ngời trong tim.
 
Niệm Từ
 

Ý kiến bạn đọc
11/09/202505:04:10
Khách
Bài viết dễ thương, nhiều cảm xúc ghê!
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.