
Một buổi sớm tháng bảy êm ả ở Morristown, New Jersey, Susan Greer dắt con chó vàng đi dạo. Tiếng chân ai đó rộn phía sau. Một người đàn ông cao lớn, nặng ký, trạc tuổi bà – năm ấy bà năm mươi sáu – chạy vượt qua. Điều đập vào mắt: ông chạy chân đất. Susan vốn ít khi bắt chuyện với người lạ, nhưng tò mò át thẹn thùng: “Sao ông chạy mà không mang giày?” Không quay đầu, người đàn ông nói lớn: “Tôi cần biết cảm giác chạy không giày. Tôi đang viết một vở tuồng, bối cảnh Phi Châu.” Giọng nói khiến bà lưu tâm, dù sáng ấy bà ăn mặc xuề xoà, chẳng son phấn.
Sáng hôm sau, chiếc Lincoln xanh đậm dừng lại bên lề. Giọng nói hôm qua: “Đi ăn sáng nhé?” Susan bảo không tiện vì đang dắt chó. Thấy vẻ thất vọng chân thành, bà mời: “Vậy ông ghé uống cà phê ở sân sau nhà tôi.” Một giờ sau, bà rót cà phê. Ông tự giới thiệu: Rick Rescorla – thật ra là Cyril Richard – người Cornwall, lớn lên ở Hayle với mẹ và ông bà. Mười sáu tuổi ông vào quân ngũ Anh, đánh ở Cyprus và Rhodesia, thành tay chống cộng quyết liệt. Sang Mỹ để nhập ngũ Hoa Kỳ, xin đi Việt Nam. Rồi nhờ phúc lợi cựu chiến binh, học viết văn ở Đại học Oklahoma, lấy cử nhân, cao học văn chương, rồi luật. Ông đã ly dị, có hai con, dọn về vùng này cho gần con. Rỗi thì viết kịch bản; vở đang thai nghén lấy bối cảnh Rhodesia, nên ông muốn hiểu cái đau chân đất khi chạy. Ông tập luyện suốt đời, nhưng nay người phù do chữa bệnh: ung thư tiền liệt tuyến đã lan tuỷ xương. “Còn bao lâu tôi không biết,” ông nói, “nhưng chừng nào còn, tôi sống cho đáng.”
Cuộc hàn huyên kéo đến mười một giờ rưỡi. Khi ra về, ông quay lại: “Tôi biết chúng ta sẽ là bạn suốt đời.” Susan, hai đời chồng đổ vỡ, ba con gái đã trưởng thành, vừa nuôi mẹ sa sút trí nhớ vừa đi làm, đã quen sống một mình, bỗng thấy đời đổi khác. Vài ngày sau họ gặp lại; rồi một chủ nhật, ông lái xe rủ bà đi ăn sáng ở Frenchtown bên sông Delaware. Ông kể tuổi thơ nghèo, mê phim Mỹ, mê ca vũ, nói mình hát được, muốn học khiêu vũ, rủ bà cùng học. Họ đứng giữa cầu nhìn xuống dòng nước. Ông nói: “Khởi đầu từ đây.”
Họ ghi danh chung lớp ở Arthur Murray; về nhà là tập tiếp. Hai người hợp nhịp với tango, rumba, samba; bất cứ đâu có nhạc, ông nắm eo bà xoay một vòng. Rick còn giúp bà chọn áo quần, bỏ bớt trang sức cầu kỳ. Susan khám phá ông không chỉ viết: ông là phó giám đốc đặc trách an ninh ở Morgan Stanley Dean Witter, làm tại World Trade Center.
Mùa thu, họ dọn về chung một căn nhà nhìn ra cái ao nhỏ có cỏ dại và chim di trú. Dọn thùng, Susan thấy khung huy chương: Silver Star, Bronze Star, Purple Heart, Cross of Gallantry. Bà treo lên tường, ông bảo cất đi: “Đừng để những thứ ấy ngoài mắt.” Ảnh mặc quân phục, ảnh với bạn lính, với viên chức Việt Nam – ông bỏ bớt, phần cất tủ. Điện thoại thỉnh thoảng reo, cựu chiến binh gọi thăm; sau những cú nói chuyện ấy, ông mất ngủ. Ông đổi số, đổi thư điện tử; không muốn sống trong dĩ vãng. Ông tìm yên bình: thiền bên ô cửa nhìn bãi cỏ và mặt nước.
Một hôm ngắm nhẫn ở tiệm, ông bảo: “Sao em không chọn một chiếc?” Rồi ông hỏi cưới. Ông muốn làm lễ gần biển cho nhớ Cornwall, ở St. Augustine, Florida, nơi sống của người bạn tâm giao: Dan Hill.
Dan Hill – người Mỹ gốc Chicago, từng đánh ở Bắc Rhodesia với tư cách lính tình nguyện – gặp Rescorla năm 1961 tại một trận bóng bầu dục. Họ kết nghĩa như trong truyện Kipling. Hill rủ Rescorla sang Hoa Kỳ nhập ngũ, vì trận tuyến lớn kế tiếp là Việt Nam. Hai người sùng kỷ luật, ám ảnh chuyện sinh tồn. Ở Fort Dix, Rick chạy chân đất từ Phi Châu qua Mỹ, luyện bàn chân đến mức dập lửa được. “Cởi trần truồng ném một người ra đời,” ông nói, “hết ngày hắn sẽ có áo cơm; hết tuần có con ngựa; hết năm có công chuyện và tiền trong nhà băng.”
Họ vào sĩ quan, 1965 ra trường. Rick về Kỵ binh bay số 7; Hill, Sư 101 Nhảy Dù. Tháng 11 ở Ia Drang, Trung phần Việt Nam, đại đội Bravo của Rick cứu viện đơn vị bị vây bởi ba trung đoàn Bắc Việt. Đêm ấy, ông hát hò, hô khẩu hiệu giữ tinh thần binh sĩ; sáng ra, đi nhặt tử sĩ thì đụng ổ liên thanh, ông lia lựu đạn diệt ổ súng. Một cảnh khác: trực thăng đáp vào LZ, phi công trúng đạn nhấc lên; Rick và lính nhảy từ cao mười thước xuống như mưa đạn, ào vào tuyến phòng thủ. Trung úy Larry Gwin nhớ “Rick vào với nụ cười, súng nén lựu đạn trên vai, M-16 trong tay, nói: ‘Tốt! Để tụi nó xả hết đạn đêm nay, ta quét sạch.’ Tinh thần lây lan tức khắc.” Ở Ia Drang, trung đoàn 7 mất 305 người. Hill nói: “Mỗi người chết dưới tay ông, Rick như chết theo một phần.”
Xuất ngũ năm 1968, Rick về Oklahoma học, viết truyện miền Tây, thai nghén tiểu thuyết “Pegasus” về kỵ binh bay. Sau khi dạy ba năm ở South Carolina, ông chuyển sang ngành an ninh doanh nghiệp, vào Dean Witter năm 1985, rồi sáp nhập Morgan Stanley. Văn phòng ở tầng 44 tháp Twin Tower phía nam. Năm 1990 Rick mời Hill lên xem an ninh. Hill chỉ xuống hầm đậu xe, lắc đầu: “Một cột chịu lực ngay giữa bãi, chẳng ai canh – chỉ cần xe bom.” Năm 1993, xe bom nổ thật. Rick sơ tán nhân viên xong, gọi Hill: “Bay lên đây.” Hill đóng vai tham vấn. Họ ghi nhận mối đe doạ Hồi giáo cực đoan; Hill để râu, đi nhà thờ Hồi ở New Jersey, nghe ngóng, nói tiếng Ả Rập, ghi nhận tư tưởng chống Mỹ lan nhanh. Họ phác hoạ kịch bản kế: có thể là New York, Washington, Philadelphia – thậm chí đồng thời – và riêng với Trade Center, Rick nghĩ đến một cú đánh từ không trung: máy bay hàng hoá chở thuốc nổ hay vũ khí sinh hoá. Ông nói tại các buổi họp rằng những “bom bẩn”, pháo nuke nhỏ, hoặc anthrax không phải chuyện bịa. Kết luận của ông: nên rời Trade Center sang New Jersey, làm khu thấp tầng, trải rộng. Dù vậy, hợp đồng thuê còn dài. Trong lúc chờ, ông lập kế sơ tán: tập dượt hai lần mỗi năm, kỷ luật như quân ngũ, “tám chữ P” thuộc lòng: proper prior planning and preparation prevents piss-poor performance.
Ngày 11 tháng 9 năm 2001, vợ chồng sắp bay sang Ý dự đám cưới con gái vào ngày 12. Sáng ấy, ông vẫn dậy 4 giờ rưỡi, tắm, hát điệu music-hall, mặc bộ pin-stripe xanh đậm – ông bắt nhân viên an ninh mang áo cà vạt mỗi ngày; nhiều người khó, ông tự móc tiền mua cho. 8 giờ 15 như lệ, gọi cho Susan. Nửa giờ sau, Susan đang nói chuyện với con thì đầu dây khác reo: “Mở tivi lên!” Tháp phía bắc bốc khói. Bà gọi văn phòng chồng; đồng nghiệp bảo: “Rick đang ngoài hành lang, cầm loa, đưa mọi người ra.”
Ngày 11 tháng 9 năm 2001, vợ chồng sắp bay sang Ý dự đám cưới con gái vào ngày 12. Sáng ấy, ông vẫn dậy 4 giờ rưỡi, tắm, hát điệu music-hall, mặc bộ pin-stripe xanh đậm – ông bắt nhân viên an ninh mang áo cà vạt mỗi ngày; nhiều người khó, ông tự móc tiền mua cho. 8 giờ 15 như lệ, gọi cho Susan. Nửa giờ sau, Susan đang nói chuyện với con thì đầu dây khác reo: “Mở tivi lên!” Tháp phía bắc bốc khói. Bà gọi văn phòng chồng; đồng nghiệp bảo: “Rick đang ngoài hành lang, cầm loa, đưa mọi người ra.”
Ở Florida, Dan Hill xem tivi thì điện thoại reo: Rick gọi từ di động. “Tôi đang sơ tán.” Hill nghe ông dùng loa, giọng bình tĩnh, rồi bật hát bài “Men of Harlech”: “Đứng vững, người Cornwall ơi… đừng bao giờ chịu khuất.” Rick nói thêm: Ban quản trị toà nhà bảo ở yên. “Tôi bảo hắn cút đi,” Rick nói. “Những tầng trên điểm trúng sẽ sập, kéo cả nhà xuống. Tôi đưa người của tôi ra.” Vài phút sau, máy bay thứ hai ngoặt trái lao vào tháp nam. Susan bấm gọi; không ai bắt máy.
Khoảng mười lăm phút sau, Rick gọi về. Susan òa khóc. Ông bảo đừng khóc: “Tôi phải đưa mọi người ra cho an toàn. Nếu có mệnh hệ nào, em hãy biết đời tôi hạnh phúc nhất bên em.” Rồi ông cúp máy. Ông lại gọi Hill: sẽ cùng vài người làm chuyến lùng soát cuối, xem còn ai kẹt hay lạc. “Gọi cho Susan, trấn an bà ấy,” ông dặn. Vừa khi Hill nói chuyện với Susan, tháp phía nam sập đổ. Hill bảo: “Nếu có ai sống sót, thì sẽ là Rick.” Nhưng quay qua vợ, ông nói thực: “Rick đã chết.”
Những giờ, những ngày sau, là những cú gọi, những lời cầu nguyện, những giấc chập chờn ôm bộ vest Rick mặc hôm thứ hai để hít lấy mùi người thân – như thể truyền hơi thở vào khoảng trống. Có lúc Susan tự nhủ: có thể anh ấy kẹt trong túi không khí, sống được vài ngày. Rồi giấy chứng tử đến: “nguyên nhân tử vong: sát hại.” Bà bật khóc. Tiền quỹ cứu trợ báo chí nói “đổ về ầm ầm,” nhưng khi người bên kia đầu dây hỏi bà “số tiền chi tiêu hàng tháng?” Người ta hỏi bà cần bao nhiêu – bà chỉ cần người chồng không trở lại.
Ngày 20 tháng 9, lễ tưởng niệm của Morgan Stanley. Chủ tịch cảm tạ 3.700 nhân viên được cứu, ca ngợi “người chăn chiên tốt” quay lại tìm con chiên lạc. Ông gọi Rick là “anh hùng.” Những người sống sót ùa đến cám ơn Susan. Họ kể: Rick trong áo vest và cà vạt, mồ hôi ướt đẫm, cầm loa chỉ đường, bắt từng cặp đi sát tay vịn bên phải, ông hát, ông nói chậm rãi: “Chậm lại, giữ nhịp… Hôm nay là ngày đáng tự hào làm người Mỹ.” Có người bảo mười phút trước khi tòa nhà sập, thấy ông ở tầng 10. “Ra đi!” – “Tôi sẽ đi sau khi chắc chắn không còn ai.” Rồi ông quay lên.
Susan mang lược tóc của ông đến bến Pier 94 cho lấy mẫu DNA. Hồ sơ trùng lặp giữa con ông và con bà – họ tính ông như hai nạn nhân. Ba tuần sau, giấy báo tử tới. Tháng 10, bà về Ground Zero. Trời thu trong, nhà cao tầng xung quanh bóng bẩy như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Trong hố sâu là tro và sắt thép, mùi khét nồng. Những tờ giấy văn phòng còn trơ mặt chữ. Bà hiểu: sẽ không có phần thân xác nào được tìm thấy. Ngày 27, tại trại chim săn mồi, họ thả một con diều – vừa được chữa lành – bay về trời. Susan đọc bài ca “The White Rose.” Dan Hill ước có thể bôi máu bạn lên tay, như nghi thức Rick vẫn làm ở Việt Nam, nhưng đây là cuộc chia tay không còn dấu tích.
Báo chí viết về ông: Inquirer, AP, Wall Street Journal, rồi Washington Post với thiên ký sự dài về một “cái chết sử thi.” Morristown vinh danh; Hayle làm lễ, trưởng chi nhánh Morgan Stanley London dự, bạn cũ gọi ông là “người đẹp đẽ” – ôm ai cũng bằng vòng tay rộng. Ở Westminster Abbey, lễ tưởng niệm nạn nhân người Anh có Nữ hoàng dự; mẹ ông nhận thư chia buồn của Thân vương Charles. Susan lên truyền hình Anh, cám ơn nước Anh – điều mà bà biết Rick sẽ mỉm cười.
Cuối tuần Cựu chiến binh, các cựu binh Ia Drang họp mặt, chiếu đoạn phim “We Were Soldiers.” Cả hội trường hoà vào một lời điếu: “Ai biết Rescorla, ta mất một người anh. Ai chưa biết, hãy biết: ông là chiến sĩ, là thủ lĩnh, là bạn. Người can trường nhất tôi từng thấy.” Susan bảo: bà biết ơn những lời tán dương, song đó không phải điều Rick muốn. Ông thường nói: “Anh hùng đích thực là người đã chết.” Với bà, ông là anh hùng vì ông là chồng bà – thế là đủ. Điều khó nhất với bà: ông đã có lựa chọn. Ông có thể ra khỏi cùng mọi người, nhưng ông quay lại. “Đó là bản chất ông. Tôi hiểu. Điều tôi chưa hiểu là vì sao tôi bị bỏ lại.”
Dan Hill đáp: một ngày kia bà sẽ hiểu. “Bà biết ông ấy bốn, năm năm – một người sáu mươi hai tuổi mang bệnh. Tôi biết một thân xác của một cỗ máy 6 feet 1, 180 pound, không biết lùi, không biết thua. Giữa trận Việt Nam, ông hát cho lính, bảo sẽ đánh tan quân địch, khi người khác nghĩ về cái chết. Nếu ông thoát ra mà còn một người chết vì ông chưa hết sức dò tìm, ông thà tự sát.” Với Hill, cuộc ra đi ấy là ‘cái chết tự nhiên’ của loại người sinh ra để làm gương: họ không sinh ra để tàn lụi, để chịu bất lực. Họ sinh ra để làm gương cho những người còn lại, những kẻ yếu đuối quanh ta, hiểu thế nào là bổn phận.
Giữa căn nhà nhìn ra ao nhỏ, Susan giữ một tấm bảng với hàng chữ: “Kính nhớ người thương của tôi, người bạn lòng tôi, người hùng Celtic của tôi… Như đại bàng, anh dang cánh, bay vào bất tận.” Một câu viết sẵn cho ngày mai không ai muốn đến. Nhưng ngày ấy đã đến. Và người đàn ông từng hát “Men of Harlech” trong bậc thang tối tăm, mặc áo vest, cầm loa, đã đi khỏi – đúng như lời ông vẫn nói: anh hùng đích thực là người đã chết.
VB tóm lược
Tóm tắt bài của ký giả James B. Stewart, đăng trên tờ The New Yorker ngày 3/2/2002.
Đọc nguyên bản đầy đủ chi tiết tiếng Anh tại đây.
Đọc nguyên bản đầy đủ chi tiết tiếng Anh tại đây.
Ý kiến bạn đọc
12/09/202504:24:24
HNguyen
Khách
Bài tóm tắt đẹp như một bài thơ. Cảm ơn tác giả và người lược dịch.


