Hôm nay,  

Tâm Hành Gia

08/03/200700:00:00(Xem: 15620)

Tâm Hành Gia

Lati Rinpoche
   ... Là những hành giả thám hiểm cái tâm của chúng sinh.

DHARAMSALA - Chuyện tử sinh của chúng ta là một khoa học chưa được các nhà khoa học chú ý đúng mức.

Khoa học tân tiến nhất của loài người ngày nay đã tìm đến Nguyệt cầu, Hoả tinh, và đã có các phi hành gia bay bổng ra ngoài tầng khí quyển để thám hiểm vũ trụ. Nhưng, ở bên trong, chúng ta biết gì về chính mình" Và về chính mình sau khi "tạ thế". Cái "thế" ấy là cuộc đời hữu hạn của mọi người ở bên này, nhưng "bên kia" cái ngưỡng cửa tử sinh ấy là gì" Là một hành lang như trong phi cảnh sẽ dẫn ta qua một chuyến bay khác" Bay tới đâu"

Mà có khi nào mình trở lại bên này hay không, dưới hình dạng ra sao"

Trên thế giới, duy nhất có một nền văn minh phát sinh trên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn đã cúi nhìn và tìm hiểu về những câu hỏi ấy của mọi người. Đó là nền văn minh Tây Tạng. Họ không có phi hành gia thám hiểm vũ trụ mà có các "tâm hành gia".

Đấy là những nhà tu, các vị hành giả, chuyên chú tìm hiểu về chuyện sống chết như một khoa học gia - theo đúng nghĩa hiện đại của chữ này. Họ thám hiểm chính con người, từ khi ra đời cho tới khi tạ thế và tìm hiểu tiếp về một cõi "tạm du", một trạm "trung chuyển", trước khi con người đó lại trở về, lại tái sinh. Tái sinh ở một hình dạng với một tâm tính cao hay thấp hơn thì còn tùy vào kiếp này. Họ nghĩ, và biết, là khi hiểu ra chuỗi tiến hoá vô thường ấy thì mình đã được giải phóng khỏi cái chết. Hết sợ chết vì đã tìm ra một sự thật, một định nghĩa khác về cái chết. Vì chết chưa là hết.

Trong một ý nghĩa nào đó, Phật giáo Tây Tạng hàm chứa một thuyết tiến hoá kiểu Darwin. Nhưng với những quy luật tiến hoá khác, chủ yếu tùy thuộc vào cái tâm. Vì vậy, Giáo sư và Nhà sư Robert Thurman mới gọi họ là 'psychonauts', tâm hành gia!

Trong truyện Anh hùng Xạ điêu, nhân vật Quách Tĩnh của Kim Dung đã hỏi nhân vật lịch sử là Thành Cát Tư Hãn một câu để đời: "Chinh phục cả thiên hạ như thế, khi chết, Đại Hãn sẽ chinh phục bao thước đất"" Vấn nạn triết học bật ra từ một cậu bé trâu nước ù lỳ chậm hiểu!

Lịch sử cho biết là Thành Cát Tư Hãn tạ thế dưới chân thành Tây Hạ.

Lịch sử cũng cho biết là con cháu của ông về sau lại tôn các vị cao tăng Phật giáo Tây Tạng làm thầy.

Năm 1573, danh vị Đạt Lai Lạt Ma - Trí huệ như biển cả - là do một Đại Hãn Mông Cổ, một Hoàng đế nhà Nguyên, lần đầu tiên phong cho Đại sư Sonam Gyatso, là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ ba. Từ vị Đạt Lai Lạt Ma này, dân Tây Tạng mới suy ngược lên hai vị trước, và truyền thừa đến vị Phật sống tái sinh thứ 14 là đức Đạt Lai Lạt Ma đời nay, một hóa thân của đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Lịch sử cũng ghi lại rằng đế quốc lớn nhất lịch sử nhân loại do Thành Cát Tư Hãn xây dựng cuối cùng đã được "Phật hoá", tự giải giới để trở thành hiếu hoà, là nhờ công đức của các vị Lạt ma Tây Tạng. Phật giáo tại Mông Cổ đã từng được gọi là Lạt ma giáo cũng từ phép màu của Tây Tạng.

Trước Thành Cát Tư Hãn 17 thế kỷ, một nhà chinh phục nổi danh khác cũng đã muốn thám hiểm chuyện tử sinh. Đó là Tần Thủy Hoàng Đế. Sau khi gồm thâu lục quốc thống nhất thiên hạ, ông không muốn chết mà sai bọn phương sĩ đi tìm thuốc trường sinh bất tử. Chuyện hão huyền vì sau cùng Tần Thủy Hoàng Đế cũng chết!

Nhưng, ngoài phép tập trung cai trị bằng chế độ quận huyện, ông còn để lại một di sản tai hại khác là vai trò của các phương sĩ ưa bàn ngang tán dọc về chuyện tử sinh! Văn minh Trung Hoa từ đó đi qua hướng khác, với các Thiên tử hoàn toàn chấp vào chuyện hình tướng của kiếp này và bọn phương sĩ nửa Lão nửa Nho đẻ ra một hình thái chuyên chế tuyệt đối kéo dài gần hai ngàn năm.

Trong khi ấy, Tây Tạng lại bước qua ngả khác.

Là một quốc gia thiện chiến và hiếu chiến, một tiền lệ trước Mông Cổ đến sáu thế kỷ, người Tây Tạng bỗng tự giải giới và quay vào trong, vào trong tâm, kể từ vua Tùng Tán Can Bố (Songsen Gambo) vào đầu thế kỷ thứ bảy. Vị vua hùng tài này đã du nhập đạo Phật từ Ấn Độ và chuyển hoá một đế quốc hùng cường thành một quốc gia hiếu hoà: từ đấy, dân Tây Tạng dồn sức xây chùa và xây trường (hai khái niệm này thực ra là một, là những tu viện Tây Tạng ta thấy ngày nay).

Đây là nơi mà các phần tử ưu tú, các học giả và cũng là những nhà sư, đã thu thập kiến thức hiện đại nhất từ Ấn Độ, Trung Quốc, Ba Tư, Mông Cổ và Đột Quyết (Hồi Hột, Uighur ngày nay) về tôn giáo, thi ca, toán học, và còn lập cả một hệ thống y học kết hợp các bộ môn như cơ thể học, thần kinh học, tâm lý, giải phẫu, thảo mộc học, hoá học và cả dưỡng sinh học. Ở trên cùng là những lý giải của Phật giáo, du nhập từ Ấn Độ nhưng được nghiên cứu và khai triển thâm sâu gấp bội, khi Phật giáo bị suy tàn tại Ấn.....

Với những kiến thức tổng hợp từ bốn phương, lại ở trên nóc thế giới và có tuổi thọ giới hạn vì điều kiện sinh sống khắc nghiệt trên đỉnh cao ấy, người Tây Tạng đã sớm chú ý đến một đề tài không thể bỏ qua được, và chú ý theo tinh thần khoa học.

Là nghiên cứu về cái chết.

Với chúng ta, hay Tây phương ngày nay, cái chết là một sự kết thúc. Một sự giải thoát nếu kiếp sống này quá buồn khổ, hay một bi kịch đau buồn mà mình tránh không được. Và ta định nghĩa cái chết - một cách khoa học và pháp lý - là khi tim ngừng óc bặt.

Dân Tây Tạng cũng đồng ý với chúng ta về điều ấy. Cái chết là một thảm kịch vào cuối đời, nhưng họ đi xa hơn khi tìm ra định nghĩa khác về chữ "đời" này và định nghĩa lại chữ "chết". Họ đã tu tập và suy nghiệm để định nghĩa lại vì đã thấy rằng cái chết chỉ khép một cánh cửa của đời này nhưng mở ra một cánh cửa khác, bước qua một cõi khác. Vui hay buồn là khi ta có hay không chuẩn bị cho chuyến đi ấy!

Nếu biết trước và tự chuẩn bị thì mình được giải phóng khỏi nỗi ưu tư về chuyện "có-không" hay "được-mất" của kiếp này. Nếu chuẩn bị chu đáo hơn, bằng cả một hành trình tu tập, mình còn có thể chủ động chọn được cái cõi tạm sẽ đến để từ đó sẽ trở về, sẽ tái sinh. Nhưng mục tiêu tái sinh không để trở thành triệu phú hay tổng thống, mà để nâng cao giá trị của mình bằng cách cứu giúp người khác. Tinh thần Đại thừa và chân lý Bồ tát hạnh của Phật giáo Tây Tạng đòi hỏi ý chí vị tha ấy ngay trong chuyện sống chết. Bồ tát là người đã thành Phật nhưng vẫn quay trở về để cứu độ chúng sinh.

Tất cả chỉ vì cái tâm bồ đề, Bồ đề tâm, cái lòng từ bi như một thuộc tính, một căn tính bẩm sinh của con người. Ta gọi đó là Phật tánh cũng đúng.

Vì vậy, chúng ta thấy ra cái vòng chu chuyển rất hợp lý của hệ thống lý luận Tây Tạng: lòng từ bi thúc giục tinh thần hiếu hoà không hiếu chiến; lòng từ bi khiến ta muốn sống hữu ích cho người khác; và khi chết đi thì cũng chỉ như bước qua một chặng khác của một con đường dài - không vạch ra từ không gian hay cõi "không" trống vắng và lạnh lẽo mà chúng ta nghĩ về cái chết - để sẽ tái sinh làm người hữu ích hơn nữa.

Trong thế giới ấy, chúng ta mới thấy các vị "tulku" hay "Phật sống", những người đã vượt lẽ tử sinh thường hằng, để quay trở lại là Lạt Ma, là Rinpoche hay Đạt Lai Lạt Ma....

Tần Thủy Hoàng Đế ngày xưa cũng muốn sống mãi như vậy mà không thành. Ông ta phải "sống giả" bằng những lăng mộ thật giả được xây dựng kiên cố và bí hiểm. Ông ta thật ra không biết chết.

Con cháu của ông, giới lãnh đạo Bắc Kinh ngày nay, cũng lại tiếp tục sự nghiệp cũ khi xâm chiếm và muốn tiêu diệt luôn nền văn minh Tây Tạng. Họ thua kém các Hoàng Đế Nguyên Mông trong cách đối xử với các vị tâm hành giả của nền văn hoá và tôn giáo này.

Chúng ta chưa thể biết được là các vị cao tăng Tây Tạng, đứng đầu là đức Đạt Lai Lạt Ma, có thể tái diễn được phép cảm hoá màu nhiệm của đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ ba với các Đại Hãn Mông Cổ hay không. Nhưng, cũng do thảm kịch Tây Tạng mà thế giới bắt đầu biết rõ hơn về các vị "tâm hành gia" Tây Tạng.

Một trong những nhân vật ấy là Lati Rinpoche.

Ngài là thầy dạy học và dạy đạo cho đức Đạt Lai Lạt Ma năm xưa và nay vẫn là một cố vấn về giáo lý và lý luận Phật học cho vị lãnh tụ Tây Tạng. Ngài là hoá thân - Rinpoche - của một đại cao tăng và là một kho báu của dân tộc Tây Tạng. Ngài cũng đã giới thiệu hay giải thích cho nhân thế những kiến giải của mình về cái chết, về cõi tạm và sự tái sinh trong cuốn Death, Intermediate Sate and Rebirth do nhà Snow Lion xuất bản năm 1985 tại New York.

Bài này được viết như một lời tạ ơn của tác giả khi Đại lão Hoà thượng Lati Rinpoche phái các đệ tử thay mặt Ngài tổ chức dạ tiệc khoản đãi riêng một số Phật tử từ California qua Dharamsala dự khoá thuyết pháp năm nay của đức Đạt Lai Lạt Ma. Thời điểm là tối Thứ Năm mùng tám tháng Ba. Nơi tổ chức là nhà hàng Chonor House do Phật tử Richard Gere thành lập cheo leo trên một con dốc nhìn qua đỉnh núi tuyết!

Đây là biến cố làm mọi người chưng hửng vì chưa từng có bao giờ!

Trong một bài khác, biết đâu tác giả chẳng có duyên may viết tiếp về vị tâm hành gia này"

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 2025 đang khép lại. Không tổng kết. Không lời ca tụng. Chỉ lặng lẽ như một người vừa đi qua nhiều mất mát — chẳng còn hơi sức nói thêm điều gì. Nhìn lại — năm 2025 không dạy ta cách thắng, mà dạy ta cách không ngã gục. Chúng ta sống sót — vì thói quen nhiều hơn hy vọng. Quen giá cả leo nhanh hơn đồng lương. Quen nhìn nhau bằng ngờ vực hơn cảm thông. Quen tin dữ đến sớm hơn cà phê sáng. Quen mỗi ngày đều phải chọn một nỗi lo để mang theo, bởi không ai ôm nỗi chừng ấy đổ vỡ vào lòng cùng lúc.
Con người ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng có quyền được hạnh phúc và tạo ra hạnh phúc. Nó giống như dưới bầu trời có thể xảy ra trận không kích bất cứ lúc nào, dù ngày hay đêm, nhưng người Ukraine vẫn có thể khảy lên tiếng đàn Bandura. Một năm qua, ai trong chúng ta không mệt mỏi với những dòng chảy đầy bụi bặm, thoát ra từ một gánh xiếc nghiệp dư, mang theo những chất dơ của hận thù, ích kỷ, tham vọng, độc tài. Những ngày cuối cùng của năm 2025, hãy nói về Lửa Và Tro (Avatar: Fire and Ash), thưởng thức siêu phẩm giả tưởng của James Cameron, để cùng khép lại một năm ngộp thở của nước Mỹ, và cùng chiêm nghiệm một điều mà nước Mỹ đang cố tình lãng quên.
Mùa Giáng Sinh này, khi chúng ta chúc nhau an lành, hòa bình và thiện chí, có lẽ ta biết rõ hơn bao giờ hết, mình sẽ là người mở cửa quán trọ hay là Herod của thời đại mới? Khi đó, chúng ta sẽ hiểu — Chúa ở bên ai trong mùa Giáng Sinh này.
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.