Hôm nay,  

Ngôi Chùa Nhỏ Nơi Xóm Nhỏ

16/06/200800:00:00(Xem: 9078)
Đó là Chùa Thanh Trì, ngôi chùa nhỏ mà cách đây 25 năm tôi có ghé thăm một lần. Giờ này mường tượng lại, chỉ còn nhớ mang máng một ngôi chùa xiêu vẹo, mái tranh, vách đất, nền đất, do một vị tăng lập nên. Chùa tọa lạc sâu trong rừng, cách con lộ chính gần 10 cây số, nên ngoài cư dân kinh tế mới, không có khách phương xa lai vãng. Từ những năm cuối thập niên 1980, vị tăng trụ trì đã cất bước vân du hành đạo ở phương khác, ngôi chùa hoang lạnh, được phật-tử địa phương thay phiên đến thắp nhang, tụng niệm. Cho đến năm 1991, với lý tưởng dấn thân hoằng pháp ở vùng xa xôi, Sư cô Thích nữ Liên Khai tự nguyện từ bỏ phố thị, đến đây đảm nhận việc hướng dẫn tín chúng tu tập. Ngôi chùa nhỏ từ đây được thắp lại sinh khí của một đạo tràng ấm cúng, dần dần đi vào nề nếp, biểu hiện nếp sống thiền vị trang nghiêm của một ni tự giữa nơi thôn dã, hắt hiu.

Cùng vươn lên với nhịp sống kinh tế của cư dân quanh vùng, ngôi chùa dần dà theo năm tháng đã được khang trang hơn, nhưng vẫn cứ là ngôi chùa nhỏ, của một xóm nhỏ có tên là xã Bàu Cạn, thuộc huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Xã Bàu Cạn vốn là thổ ngơi cằn cỗi của vùng kinh tế mới rừng thiêng nước độc, từng là vùng kinh tế tự túc hầu như biệt lập với các xã khác trong huyện, nay đã ổn định phần nào nhờ sự thông thương của đường sá và các phương tiện chuyên chở; nhưng dù sao, ở một nơi cách trở, xa thị tứ như vầy, đời sống người dân vẫn còn thiếu thốn nhiều mặt, và sự cúng dường tứ sự của phật-tử đối với chùa rất giới hạn.

Vì vậy có thể nói rằng, từ ngôi chùa mái tranh vách đất tiến đến mái ngói tường gạch là cả một chuỗi dài vất vả, khổ nhọc của ni chúng và phật-tử địa phương: xin gạch ngói vụn, rẻo, của lò gạch, túm vén tài chánh eo hẹp của chùa để mua cát và xi măng, rồi đem chính công sức của mình ra để dựng nên ni tự nhỏ bé, khiêm nhường nhưng không kém vẻ trang nghiêm hiện nay.

Hòa điệu với đời sống eo hẹp của dân chúng địa phương, Sư cô Liên Khai đã thiết lập một đời sống kinh tế tự túc ở chùa để tiếp nhận và nuôi dưỡng ni chúng trên hai mươi vị trong những năm qua. Ni chúng ở đây gồm có 5 vị tỳ-kheo-ni (kể luôn sư cô trụ trì), 4 vị sa-di-ni và 15 tiểu ni (ngũ giới sa-di-ni). Các sư cô trẻ đều được đi học. Một sư cô đang học cao cấp Phật học tại Huế; hai sư cô học trung cấp Phật học ở Biên Hòa; 4 sa-di-ni và các tiểu ni đều đi học trung cấp và tiểu học phổ thông ở các trường của huyện, xã. Để lo cho ni chúng được ăn học đầy đủ, chùa đã làm nhang bán tại chùa và gửi bán ở một số chùa quen cũng như tiệm tạp hóa ngoài chợ. Bằng vào cách sản xuất để tự túc duy nhất này, đã có những lúc chùa lâm vào cảnh khó khăn; nhưng nhờ sự vén khéo của sư cô trụ trì, với nếp sống đạm bạc của ni chúng, cũng như lòng quý mến qui ngưỡng của phật-tử địa phương dành cho chùa, khó khăn cách nào rồi cũng vượt qua được.

Cố nhiên những thiếu thốn về vật chất không phải là điều đáng bận tâm đối với người xuất gia chủ trương “tam thường bất túc” (ăn, mặc, ngủ không cần đầy đủ). Nhưng để thành tựu những phật-sự lớn hơn cho các sinh hoạt của một ngôi chùa, quả thật là điều trở ngại, khó khăn. Chẳng hạn, đúc một đại hồng chung để sớm hôm có tiếng chuông chùa thiền vị ngân dài khắp thôn xóm, trên thì thấu đến các cõi trời (thượng thông thiên đường), dưới thì xuyên đến những cõi địa ngục (hạ triệt địa phủ), không phải là việc đơn giản dễ dàng. Việc đúc một đại hồng chung thời nay, đối với các công trình xây dựng nguy nga đồ sộ của các chùa thành phố, thì chỉ là phật-sự nhỏ, thứ yếu. Nhưng đối với ngôi chùa nhỏ nơi xóm nhỏ xa xôi này, là cả một ước nguyện, một giấc mơ, mà nếu chùa phải dành dụm chắt mót bằng tiền bán nhang hàng ngày thì phải mất 20 năm nữa mới đủ để thỉnh một đại hồng chung! Mà liệu 20 năm sau, vật giá có còn giữ nguyên như hiện nay không, hay đến lúc đó lại phải tiếp tục dành dụm thêm 20 năm kế tiếp cho đủ số tiền đúc chuông"

Tiếng chuông chùa thật là gần gũi, không thể thiếu trong đời sống dân lành của mọi thời đại, mọi xứ sở, nhất là nơi quê hương hai ngàn năm gắn bó với đạo Phật. Chùa không chuông như xác không hồn, như thơ thiếu nhạc, như đàn thiếu giây, như người câm tiếng. Ở đô thị tiếng chuông có thể bị lấn át bởi bao tiếng động cơ của nhà máy, xe cộ; còn ở một xóm nhỏ vùng quê, sẽ được lắng nghe, đón nhận trọn vẹn hơn. Nơi đây, tiếng chuông chùa lân mẫn, vỗ về bao thân phận khốn cùng, khổ nhọc; đánh thức bao tâm hồn chìm đắm trong cuộc mộng nhân sinh. Tiếng chuông ngân buổi chiều, từ nhặt đến thưa, nhắc nhở một ngày qua đi, cuộc đời khép dần theo bóng hoàng hôn tàn úa. Tiếng chuông ngân buổi sớm với đồng vọng của tiếng gà gáy canh khuya, từ thưa đến nhặt, thúc giục hành giả tinh cần tu học, đánh thức dân làng chỗi dậy đón chào một ngày mới tinh khôi… Chuông chùa sớm hôm là tiếng nói của hồn dân tộc. Khi những người trong thôn xóm không có cơ hội đến chùa tụng kinh bái sám, tiếng chuông chính là sứ giả của Phật, cùng một lúc gửi đến muôn người, muôn nhà, nơi hẻm nhỏ, ở trường học, nơi chợ búa, đồng ruộng, hay nơi nương rẫy, rừng xa. Tiếng chuông chùa từng được đức Phật dùng để khai thị ngài A-nan trong kinh Thủ Lăng Nghiêm. Năng lực của âm thanh cũng được đức Quán-thế-âm triển khai qua pháp môn Quán-âm để thành tựu diệu dụng viên thông. Qua đó, với sự thành tâm chú nguyện, tiếng chuông không phải chỉ gửi đến ngàn người trong thôn xóm nhỏ, mà có thể siêu việt khắp pháp giới, cho đến những cõi tối tăm của địa ngục cũng nghe được (nguyện thử chung thinh siêu pháp giới, Thiết-vi u ám tất giai văn); và đối với hành giả quán niệm âm thanh theo pháp tu của đức Quán-thế-âm, tiếng chuông cũng có thể là phương tiện để xoay ngược về tánh nghe của mình.

Một cách tình cảm, thơ mộng và dễ cảm nhận hơn, chúng ta có thể đọc qua hai đoạn thơ trong bài “Nhớ Chùa” của thi sĩ Huyền Không, để thấy rằng tiếng chuông không thể thiếu khi nói đến chùa, nhớ về chùa:

Mỗi tối dân quê đón gió lành

Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh

Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi

An ủi dân hiền mọi mái tranh

Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng

Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung

Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tông.

Từ lợi ích thực tiễn đến lý tánh sâu xa, đại hồng chung quả thật là cần thiết phải có trong mỗi ngôi chùa, nhất là ngôi chùa nhỏ ở vùng hẻo lánh như Chùa Thanh Trì, nơi mà đời sống đạm bạc thanh cao của ni chúng lặng lẽ biểu lộ hạnh nguyện độ sanh của những sứ giả Như Lai thời mạt pháp. Lặng lẽ nhưng thật là hùng tráng. Vì ở đây, đạo hạnh của người xuất gia được thường trực trui luyện trong gian khó và trước những khốn khổ của dân tình xung quanh.

Tôi chắp tay cúi đầu, hướng về nơi ấy, cầu mong một ngày rất gần, ước nguyện nhỏ có được một quả chuông cho ngôi chùa nhỏ nơi xóm nhỏ, sẽ được tựu thành.

California, ngày 11 tháng 6 năm 2008

LỜI VIẾT THÊM:

Một cách cụ thể, người viết xin ghi lại nơi đây địa chỉ của Chùa Thanh Trì để chư tôn đức Tăng Ni và quý đạo hữu gần xa, trong nước hay ngoài nước, có thể liên lạc và ủng hộ trực tiếp đến Sư cô Thích nữ Liên Khai để tiến hành việc đúc một đại hồng chung cho Chùa.

Về ngân khoản để lo việc đúc chuông, theo Đại đức Thích Quảng Lộc, cách nay 3 năm, chùa Tăng Hội thỉnh một đại hồng chung 8 tạ (800 kí-lô) chỉ tốn khoảng 100 triệu đồng Việt Nam tính luôn giá treo chuông và tiền chuyên chở từ Huế vào Long Thành. Nhưng mới đây, theo Thượng tọa Thích Giác Đạo, đại hồng chung 4 tạ (400 kí-lô), cũng đúc tại Huế, thì giá thành hiện nay đã tương đương với đại hồng chung 8 tạ của 3 năm trước. Giá đồng hiện nay lên khá cao vì đồng khan hiếm. Thời giá bất thường cũng không biết phải vạch mức ngân quỹ cần có để vận động quyên góp như thế nào. Do đó, Sư cô Liên Khai thưa cùng chư tôn đức và quý đạo hữu rằng Chùa Thanh Trì sẽ “liệu cơm gắp chao” mà có quyết định về kích cỡ của chuông. Tùy nhân duyên đóng góp ủng hộ của chư tôn đức Tăng Ni và phật-tử mà đại hồng chung của Chùa sẽ lớn hay nhỏ. Nhưng trong ước nguyện của Sư cô thì quả chuông 5 tạ là quí lắm rồi, vừa đủ để ngân vang với bán kính một cây số từ tâm điểm Chùa Thanh Trì.

* Từ Châu Âu, Châu Úc, Canada, Việt Nam, xin gửi chi phiếu về:

Sư cô Thích nữ Liên Khai

Chùa Thanh Trì

Xã Bàu Cạn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai

Việt Nam

Điện thoại: 84 0613553151

* Tại Hoa Kỳ, có thể gửi về:

Vĩnh Hảo

P.O. Box 374

Midway City, CA 92655 – USA

Tel.: (714) 350-3863

* Lưu ý:

Chi phiếu gửi trực tiếp Chùa Thanh Trì hoặc qua trung gian Vĩnh Hảo, xin đều ghi rõ: “cúng dường đại hồng chung Chùa Thanh Trì.” Quý vị cần khai thuế trên số tịnh tài cúng dường, xin gửi đến các chùa gần nhất để lấy ID tax, và nhờ chùa đó chuyển đến Chùa Thanh Trì, hoặc Vĩnh Hảo. Danh sách chư tôn đức và quý đạo hữu ủng hộ đúc chuông sẽ ghi vào Sổ Công Đức do Vĩnh Hảo giữ, và cũng sẽ công bố mỗi ngày (hoặc mỗi tuần) trên các websites Phật giáo nào cho phép đăng. Thành kính tri ân và kính chúc an lạc cát tường.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.