Hôm nay,  

Ngôi Chùa Nhỏ Nơi Xóm Nhỏ

6/16/200800:00:00(View: 9080)
Đó là Chùa Thanh Trì, ngôi chùa nhỏ mà cách đây 25 năm tôi có ghé thăm một lần. Giờ này mường tượng lại, chỉ còn nhớ mang máng một ngôi chùa xiêu vẹo, mái tranh, vách đất, nền đất, do một vị tăng lập nên. Chùa tọa lạc sâu trong rừng, cách con lộ chính gần 10 cây số, nên ngoài cư dân kinh tế mới, không có khách phương xa lai vãng. Từ những năm cuối thập niên 1980, vị tăng trụ trì đã cất bước vân du hành đạo ở phương khác, ngôi chùa hoang lạnh, được phật-tử địa phương thay phiên đến thắp nhang, tụng niệm. Cho đến năm 1991, với lý tưởng dấn thân hoằng pháp ở vùng xa xôi, Sư cô Thích nữ Liên Khai tự nguyện từ bỏ phố thị, đến đây đảm nhận việc hướng dẫn tín chúng tu tập. Ngôi chùa nhỏ từ đây được thắp lại sinh khí của một đạo tràng ấm cúng, dần dần đi vào nề nếp, biểu hiện nếp sống thiền vị trang nghiêm của một ni tự giữa nơi thôn dã, hắt hiu.

Cùng vươn lên với nhịp sống kinh tế của cư dân quanh vùng, ngôi chùa dần dà theo năm tháng đã được khang trang hơn, nhưng vẫn cứ là ngôi chùa nhỏ, của một xóm nhỏ có tên là xã Bàu Cạn, thuộc huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Xã Bàu Cạn vốn là thổ ngơi cằn cỗi của vùng kinh tế mới rừng thiêng nước độc, từng là vùng kinh tế tự túc hầu như biệt lập với các xã khác trong huyện, nay đã ổn định phần nào nhờ sự thông thương của đường sá và các phương tiện chuyên chở; nhưng dù sao, ở một nơi cách trở, xa thị tứ như vầy, đời sống người dân vẫn còn thiếu thốn nhiều mặt, và sự cúng dường tứ sự của phật-tử đối với chùa rất giới hạn.

Vì vậy có thể nói rằng, từ ngôi chùa mái tranh vách đất tiến đến mái ngói tường gạch là cả một chuỗi dài vất vả, khổ nhọc của ni chúng và phật-tử địa phương: xin gạch ngói vụn, rẻo, của lò gạch, túm vén tài chánh eo hẹp của chùa để mua cát và xi măng, rồi đem chính công sức của mình ra để dựng nên ni tự nhỏ bé, khiêm nhường nhưng không kém vẻ trang nghiêm hiện nay.

Hòa điệu với đời sống eo hẹp của dân chúng địa phương, Sư cô Liên Khai đã thiết lập một đời sống kinh tế tự túc ở chùa để tiếp nhận và nuôi dưỡng ni chúng trên hai mươi vị trong những năm qua. Ni chúng ở đây gồm có 5 vị tỳ-kheo-ni (kể luôn sư cô trụ trì), 4 vị sa-di-ni và 15 tiểu ni (ngũ giới sa-di-ni). Các sư cô trẻ đều được đi học. Một sư cô đang học cao cấp Phật học tại Huế; hai sư cô học trung cấp Phật học ở Biên Hòa; 4 sa-di-ni và các tiểu ni đều đi học trung cấp và tiểu học phổ thông ở các trường của huyện, xã. Để lo cho ni chúng được ăn học đầy đủ, chùa đã làm nhang bán tại chùa và gửi bán ở một số chùa quen cũng như tiệm tạp hóa ngoài chợ. Bằng vào cách sản xuất để tự túc duy nhất này, đã có những lúc chùa lâm vào cảnh khó khăn; nhưng nhờ sự vén khéo của sư cô trụ trì, với nếp sống đạm bạc của ni chúng, cũng như lòng quý mến qui ngưỡng của phật-tử địa phương dành cho chùa, khó khăn cách nào rồi cũng vượt qua được.

Cố nhiên những thiếu thốn về vật chất không phải là điều đáng bận tâm đối với người xuất gia chủ trương “tam thường bất túc” (ăn, mặc, ngủ không cần đầy đủ). Nhưng để thành tựu những phật-sự lớn hơn cho các sinh hoạt của một ngôi chùa, quả thật là điều trở ngại, khó khăn. Chẳng hạn, đúc một đại hồng chung để sớm hôm có tiếng chuông chùa thiền vị ngân dài khắp thôn xóm, trên thì thấu đến các cõi trời (thượng thông thiên đường), dưới thì xuyên đến những cõi địa ngục (hạ triệt địa phủ), không phải là việc đơn giản dễ dàng. Việc đúc một đại hồng chung thời nay, đối với các công trình xây dựng nguy nga đồ sộ của các chùa thành phố, thì chỉ là phật-sự nhỏ, thứ yếu. Nhưng đối với ngôi chùa nhỏ nơi xóm nhỏ xa xôi này, là cả một ước nguyện, một giấc mơ, mà nếu chùa phải dành dụm chắt mót bằng tiền bán nhang hàng ngày thì phải mất 20 năm nữa mới đủ để thỉnh một đại hồng chung! Mà liệu 20 năm sau, vật giá có còn giữ nguyên như hiện nay không, hay đến lúc đó lại phải tiếp tục dành dụm thêm 20 năm kế tiếp cho đủ số tiền đúc chuông"

Tiếng chuông chùa thật là gần gũi, không thể thiếu trong đời sống dân lành của mọi thời đại, mọi xứ sở, nhất là nơi quê hương hai ngàn năm gắn bó với đạo Phật. Chùa không chuông như xác không hồn, như thơ thiếu nhạc, như đàn thiếu giây, như người câm tiếng. Ở đô thị tiếng chuông có thể bị lấn át bởi bao tiếng động cơ của nhà máy, xe cộ; còn ở một xóm nhỏ vùng quê, sẽ được lắng nghe, đón nhận trọn vẹn hơn. Nơi đây, tiếng chuông chùa lân mẫn, vỗ về bao thân phận khốn cùng, khổ nhọc; đánh thức bao tâm hồn chìm đắm trong cuộc mộng nhân sinh. Tiếng chuông ngân buổi chiều, từ nhặt đến thưa, nhắc nhở một ngày qua đi, cuộc đời khép dần theo bóng hoàng hôn tàn úa. Tiếng chuông ngân buổi sớm với đồng vọng của tiếng gà gáy canh khuya, từ thưa đến nhặt, thúc giục hành giả tinh cần tu học, đánh thức dân làng chỗi dậy đón chào một ngày mới tinh khôi… Chuông chùa sớm hôm là tiếng nói của hồn dân tộc. Khi những người trong thôn xóm không có cơ hội đến chùa tụng kinh bái sám, tiếng chuông chính là sứ giả của Phật, cùng một lúc gửi đến muôn người, muôn nhà, nơi hẻm nhỏ, ở trường học, nơi chợ búa, đồng ruộng, hay nơi nương rẫy, rừng xa. Tiếng chuông chùa từng được đức Phật dùng để khai thị ngài A-nan trong kinh Thủ Lăng Nghiêm. Năng lực của âm thanh cũng được đức Quán-thế-âm triển khai qua pháp môn Quán-âm để thành tựu diệu dụng viên thông. Qua đó, với sự thành tâm chú nguyện, tiếng chuông không phải chỉ gửi đến ngàn người trong thôn xóm nhỏ, mà có thể siêu việt khắp pháp giới, cho đến những cõi tối tăm của địa ngục cũng nghe được (nguyện thử chung thinh siêu pháp giới, Thiết-vi u ám tất giai văn); và đối với hành giả quán niệm âm thanh theo pháp tu của đức Quán-thế-âm, tiếng chuông cũng có thể là phương tiện để xoay ngược về tánh nghe của mình.

Một cách tình cảm, thơ mộng và dễ cảm nhận hơn, chúng ta có thể đọc qua hai đoạn thơ trong bài “Nhớ Chùa” của thi sĩ Huyền Không, để thấy rằng tiếng chuông không thể thiếu khi nói đến chùa, nhớ về chùa:

Mỗi tối dân quê đón gió lành

Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh

Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi

An ủi dân hiền mọi mái tranh

Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng

Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung

Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tông.

Từ lợi ích thực tiễn đến lý tánh sâu xa, đại hồng chung quả thật là cần thiết phải có trong mỗi ngôi chùa, nhất là ngôi chùa nhỏ ở vùng hẻo lánh như Chùa Thanh Trì, nơi mà đời sống đạm bạc thanh cao của ni chúng lặng lẽ biểu lộ hạnh nguyện độ sanh của những sứ giả Như Lai thời mạt pháp. Lặng lẽ nhưng thật là hùng tráng. Vì ở đây, đạo hạnh của người xuất gia được thường trực trui luyện trong gian khó và trước những khốn khổ của dân tình xung quanh.

Tôi chắp tay cúi đầu, hướng về nơi ấy, cầu mong một ngày rất gần, ước nguyện nhỏ có được một quả chuông cho ngôi chùa nhỏ nơi xóm nhỏ, sẽ được tựu thành.

California, ngày 11 tháng 6 năm 2008

LỜI VIẾT THÊM:

Một cách cụ thể, người viết xin ghi lại nơi đây địa chỉ của Chùa Thanh Trì để chư tôn đức Tăng Ni và quý đạo hữu gần xa, trong nước hay ngoài nước, có thể liên lạc và ủng hộ trực tiếp đến Sư cô Thích nữ Liên Khai để tiến hành việc đúc một đại hồng chung cho Chùa.

Về ngân khoản để lo việc đúc chuông, theo Đại đức Thích Quảng Lộc, cách nay 3 năm, chùa Tăng Hội thỉnh một đại hồng chung 8 tạ (800 kí-lô) chỉ tốn khoảng 100 triệu đồng Việt Nam tính luôn giá treo chuông và tiền chuyên chở từ Huế vào Long Thành. Nhưng mới đây, theo Thượng tọa Thích Giác Đạo, đại hồng chung 4 tạ (400 kí-lô), cũng đúc tại Huế, thì giá thành hiện nay đã tương đương với đại hồng chung 8 tạ của 3 năm trước. Giá đồng hiện nay lên khá cao vì đồng khan hiếm. Thời giá bất thường cũng không biết phải vạch mức ngân quỹ cần có để vận động quyên góp như thế nào. Do đó, Sư cô Liên Khai thưa cùng chư tôn đức và quý đạo hữu rằng Chùa Thanh Trì sẽ “liệu cơm gắp chao” mà có quyết định về kích cỡ của chuông. Tùy nhân duyên đóng góp ủng hộ của chư tôn đức Tăng Ni và phật-tử mà đại hồng chung của Chùa sẽ lớn hay nhỏ. Nhưng trong ước nguyện của Sư cô thì quả chuông 5 tạ là quí lắm rồi, vừa đủ để ngân vang với bán kính một cây số từ tâm điểm Chùa Thanh Trì.

* Từ Châu Âu, Châu Úc, Canada, Việt Nam, xin gửi chi phiếu về:

Sư cô Thích nữ Liên Khai

Chùa Thanh Trì

Xã Bàu Cạn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai

Việt Nam

Điện thoại: 84 0613553151

* Tại Hoa Kỳ, có thể gửi về:

Vĩnh Hảo

P.O. Box 374

Midway City, CA 92655 – USA

Tel.: (714) 350-3863

* Lưu ý:

Chi phiếu gửi trực tiếp Chùa Thanh Trì hoặc qua trung gian Vĩnh Hảo, xin đều ghi rõ: “cúng dường đại hồng chung Chùa Thanh Trì.” Quý vị cần khai thuế trên số tịnh tài cúng dường, xin gửi đến các chùa gần nhất để lấy ID tax, và nhờ chùa đó chuyển đến Chùa Thanh Trì, hoặc Vĩnh Hảo. Danh sách chư tôn đức và quý đạo hữu ủng hộ đúc chuông sẽ ghi vào Sổ Công Đức do Vĩnh Hảo giữ, và cũng sẽ công bố mỗi ngày (hoặc mỗi tuần) trên các websites Phật giáo nào cho phép đăng. Thành kính tri ân và kính chúc an lạc cát tường.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.