Hôm nay,  

Chặng Đường Đã Đi Qua

28/04/201000:00:00(Xem: 6632)

Chặng đường đã đi qua


Nguyễn-Viết Kim
Gần ngôi thánh đường Saint Columbian là một khu chung cư nhỏ với khoảng 50 đơn vị, đó là nơi tôi có dịp tiếp chuyện với ông Nguyễn Ngọc Khôi, năm nay 83 tuổi và có phong thái ung dung của một kẻ sĩ phương Đông. Ông là thân phụ của giáo sư Nguyễn-Lâm Kim Oanh. Qua nhiều cuộc mạn đàm với ông, tôi xin ghi lại cái nhìn dưới góc độ của một vị cao niên trải nghiệm thời gian với nhiều biến động .
 Đang theo học để trở thành những sư huynh (freres), với mộng ước khi tốt nghiệp sẽ dạy học ở các trường Taberd (La San) thì ông bị gọi động viên vào năm 1950, lúc đó Việt Nam mới được Pháp trao trả quyền độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Khi trường Võ Bị Liên Quân (inter-armes, inter- armed forces) mở khoá đầu tiên tại Đà Lạt vào năm 1951, để đào tạo các sĩ quan cho Quân Đội Quốc Gia (sau này là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa), ông theo học và tốt nghiệp khóa này với cấp bậc thiếu úy hiện dịch, được đặt tên Trần Hưng Đạo và Quốc Trưởng Bảo Đại chủ tọa Lễ Mãn Khóa . Sau một thời gian chinh chiến tại miền Trung, đặc biệt là tại vùng Khe Sanh, trung úy Khôi được gọi về Võ Bị Quốc Gia và là huấn luyện viên. Năm 1956, ông Ngô Đình Diệm được dân bầu vào chức vụ Tổng Thống của Đệ Nhất Cộng Hòa . Tòa Đại Sứ được thành lập tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn và tuỳ viên quân lực là thiếu tá Khôi. Năm 1957, trung tá Khôi tham dự vào việc chuẩn bị chuyến công du Hoa Kỳ của tổng thống Ngô Đình Diệm . Hồi hương năm 1958, được bổ nhiệm là Tư Lệnh Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ vào năm 1960 . Sau một thời gian phục vụ tại Cao Nguyên, năm 1968 đại tá Nguyễn Ngọc Khôi nhậm chức thị trưởng Đà Nẵng.  Năm 1972 ông là thành viên quân sự của Ủy Ban Thi Hành Hiệp Định Ba Lê với nhiệm sở tại Paris và Saigon . Đầu năm 1975, sau 25 năm quân vụ, được giải ngũ cùng với lớp sĩ quan đầu tiên . Rời khỏi Việt Nam từ đảo Phú Quốc vào cuối tháng 4 năm 1975 . Sau một thời gian tại Denver, Colorado thì định cư tại Orange County .
Suy nghĩ của cụ Khôi qua dòng thời gian:
- năm 1949 thì Pháp Quốc chấp nhận cho Việt Nam có nền độc lập, tình hình biến chuyển nhanh và Quân Đội Quốc Gia được thành lập, lệnh động viên ban hành; sau một thời gian trong quân đội ; tôi nộp đơn thi vào lớp sĩ quan và được nhận vào học tại Võ Bị Đà Lạt . Chương trình phỏng theo các trường võ bị của Pháp song thu ngắn lại với thời gian thụ huấn trong khoảng 9 tháng, tốt nghiệp với cấp bậc thiếu úy hiện dịch, phục vụ cho Quân Đội Quốc Gia . Ngôn ngữ trong trường là Pháp Ngữ với các huấn luyện viên đa số là người Pháp . Tình hình chiến cuộc sôi động và tôi phục vụ tại miền Trung trong vùng phụ cận của Khe Sanh. Sau một thời gian chinh chiến tại miền Trung; tôi lên trung úy, được gọi về trường Võ Bị và là huấn luyện viên của 2 khoá sĩ quan (8 và 10) . Bộ Tổng Tham Mưu ra nghị định đặt khóa đầu tiên của Võ Bị Liên Quân Đà Lạt là khoá 3 Võ Bị Quốc Gia . Tôi rất hãnh diện là lớp sĩ quan đầu tiên của Quân Đội Quốc Gia . Mỗi năm chúng tôi có tụ họp cựu khoá sinh và thân nhân, số người tham dự ngày một thưa thớt song hội ngộ là một niềm vui cho các cựu quân nhân, các quả phụ và con cái các vị này .


- năm 1956, thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hoà , Hoa Kỳ trợ giúp VNCH trang bị và huấn luyện Quân Đội, rất nhiều sĩ quan được gửi đi tu nghiệp, huấn luyện. Tòa Đại Sứ được thành lập tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn và tôi là tuỳ viên quân sự. Một trong những phụ tá tùy viên là đại úy Nguyễn Xuân Vinh (sau này là tư lệnh Không Quân) . Năm 1957, tôi được lên trung tá và tham dự vào việc chuẩn bị chuyến công du Hoa Kỳ của tổng thống Ngô Đình Diệm . Tổng Thống Eisenhower đã ra tận phi cơ để đón, diễn hành với hoa giấy (confetti) tung bay tại Nữu Ước, diễn văn trước Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ . Đây là thời gian vô cùng bận rộn vì nhân sự rất ít và tôi có nhiêm vụ liên lạc với Bộ Quốc Phòng, các quân binh chủng, tuỳ viên quân sự của các quốc gia khác, thăm viếng các sĩ quan tại các quân trường Hoa Kỳ . Hầu như mỗi ngày tôi đều có hẹn để nói chuyện với nhân viên quân sự, ngoại giao tại Army & Navy Club tại DC . Các sĩ quan khi vãng lai vùng thủ đô thì nhà tôi mời về nhà dùng cơm với các món ăn của quê hương . Khi sắp xếp được thì giờ thì tôi đi viếng các quân trường và trung tâm huấn luyện có sĩ quan Việt Nam thụ huấn .
- hồi hương vào năm 1958, đang phục vụ tại Bộ Quốc Phòng thì tôi được thuyên chuyển làm tư lệnh Lữ Đoàn vào năm 1960. Được tổ chức là những đại đội có thể tác chiến độc lập như pháo binh, thiết giáp, phòng không, và đông nhất là bộ binh , trước đây có tính cách nghi lễ; sau này chúng tôi huấn luyện lại, cho đi tập trận và tác chiến như những đơn vị tinh nhuệ khác . Lúc này tại Hoa Kỳ liên danh Kennedy - Johnson thuộc đảng Dân Chủ thắng cử và sẽ thay thế chính quyền Eisenhower (Cộng Hoà) vào đầu năm 1961 . Năm 1962, 2 phi công của Không Quân ném bomDinh Độc Lập. Tổng Thống Phủ được dời qua Dinh Gia Long ; một kiến trúc mới được xây dựng thay thế Dinh Độc Lập cũ .Ngày nào tôi cũng có dịp gặp tổng thống Diệm, ông là một người có nếp sống đạo đức ; theo truyền thống văn hoá Á Đông, ông rất tôn trọng "quyền huynh thế phụ" .
- trong cuộc biến động ngày 1 tháng 11 năm 1963, tôi bị câu lưu tại Bộ Tổng Tham Mưu, sau đó vài ngày được về nhà và thuyên chuyển đến nhiệm sở mới tại Cao Nguyên . Trung tướng Dương Văn Minh đối xử lịch sự với tôi .
- sau 11 năm là trung tá thực thụ, năm 1968 tôi được lên đại tá và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm tôi là thị trưởng Đà Nẵng . Đây là thành phố lớn thứ hai sau Saigon, quân lực Mỹ đã trực tiếp tham chiến với sự đổ bộ của Thủy Quân Lục Chiến vào năm 1965 tại bãi biển Mỹ Khê . Khi tôi nhậm chức thì những kinh hoàng về Tết Mậu Thân vẫn còn đậm nét . Lúc đó các chức vụ quan trọng như tỉnh, thị trưởng thông thường là 2 năm . Công việc rất khó khăn và tôi tạo được những mối quan hệ tốt đẹp với nhiều vị thị trưởng tại Đài Loan, Đại Hàn, Tân Gia Ba. Lúc đó Tây Đức (Bundesrepublik Deutshland)có trợ giúp tàu bệnh viện Helgoland, bỏ neo tại hải cảng Đà Nẵng . Chúng tôi có thiết lập  dự thảo "Đà Nẵng năm 2000", một "master developing plan" cho tương lai .
- năm 1972, tôi rời chức vụ thị trưởng Đà Nẵng, nhận nhiệm vụ mới là thành viên quân sự trong uỷ ban thi hành hiệp định Ba Lê với nhiệm sở tại Saigon và Paris. Đầu năm 1975, Bộ Quốc Phòng cho biết các quân nhân hiện dịch với 25 năm quân vụ có thể xin giải ngũ, tôi đã nộp đơn xin và được chấp thuận .
- bây giờ bước vào tuổi 83, không biết con đường trước mặt còn bao xa trước khi từ giã cõi đời , tôi rời xa Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 và gần 35 năm chưa quay về quê hương, tôi rất hãnh diện đã phục vụ 25 năm cho đất nước qua cương vị quân nhân . Người xưa có nói "bại tướng nên im lặng" và tôi chỉ có một ước vọng là tương lai sẽ tuơi sáng cho mọi người .
 Ngồi trên xe nhìn ông đứng thẳng vẫy chào, hoàng hôn với những tia nắng hiu hắt cuối ngày làm tôi nhớ tôi câu nói "chiến binh sẽ nhạt nhoà với thời gian, nhưng hình ảnh lưu lại mãi".

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.