Hôm nay,  

Trong Cơn Khủng Hoảng

16/10/200800:00:00(Xem: 10900)

<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /> 

 

NguyễnXuân Nghĩa & RFA

 

...Việt Nam sẽ thiếu ngoại tệ trầm trọng và Mỹ kim sẽ còn lên giá...

 

Từ cuối tuần qua, hàng loạt kế hoạch cứu nguy tài chính đã được nhiều quốc gia ban hành. Tình hình kinh tế toàn cầu, nhất là của các nước đang phát triển, sẽ ra sao" Việt Long tìm câu trả lời qua phần trao đổi sau đây cùng nhà tư vấn kinh tế NguyễnXuân Nghĩa trong tiết mục chuyên đề kỳ này của Diễn đàn Kinh tế đài RFA.

 

Hỏi: Xin kính chào ông Nghĩa. Thời sự kinh tế tuần qua là một sự hoảng loạn của các thị trường chứng khoán trên toàn thế giới sau khi bị sụt giá kỷ lục nội trong một tuần. Thế rồi, tình hình bỗng như biến chuyển khả quan sau khi Hoa Kỳ và Âu Châu tung ra hàng loạt kế hoạch cấp cứu, khiến các thị trường chứng khoán cùng lên giá cũng với mức kỷ lục trong ngày Thứ Hai 13 và có vẻ hồi phục trong ngày Thứ Ba tuy rằng thị trường Mỹ có sụt giá chút đỉnh. Trong chương trình tuần này, xin đề nghị với ông là chúng ta cùng tìm hiểu xem rằng kinh tế của các nước đang phát triển như Việt Nam sẽ xoay trở thế nào giữa khung cảnh toàn cầu đầy bất trắc như vậy.

 

Câu hỏi đầu tiên, thưa ông, các kế hoạch cấp cứu gồm có những gì và có hy vọng cứu nguy nền kinh tế ở bên dưới sau cơn khủng hoảng tài chính ở bên trên hay không"

 

- Chúng ta đang ở giữa một trận bão với nhiều xoay chuyển đầy bất ngờ do tâm lý hốt hoảng của thị trường, cho nên mọi phân tích đều chỉ có tính cách nhất thời mà thôi và đây cũng là điều khó nhất cho những người làm truyền thông như chúng ta.

 

- Nhìn trên đại thể, người ta có thể thấy vài nét chính của nỗ lực cứu nguy tài chính như sau. Đầu tiên, ta có bốn khối kinh tế mạnh nhất địa cầu là Hoa Kỳ, Âu Châu, Nhật Bản và Trung Quốc. Từ 10 ngày qua, giới chức Hoa Kỳ và Âu Châu đã thảo luận và đề nghị nhiều giải pháp cứu nguy quyết liệt nhất vì hệ thống ngân hàng Âu-Mỹ bị chấn động nặng nhất. Trong khi ấy, Nhật Bản và Trung Quốc có tham dự thảo luận nhưng thực tế là chưa tham gia vào việc cấp cứu vì vấn đề kinh tế của hai xứ này lại khác, có khi còn nguy ngập hơn trong vài tháng tới mà ta sẽ nói sau.

 

Hỏi: Nói như vậy, ông cho rằng tuần qua mới chỉ có Hoa Kỳ và Âu châu tung ra kế hoạch cấp cứu mà thôi"

 

- Thực chất là như vậy, nếu ta nói đến những kế hoạch tích cực và có phối hợp giữa các nước. Về phần Hoa Kỳ và Âu Châu, ta có hàng loạt hội nghị cấp cao của lãnh đạo Anh, Đức, Pháp, Ý tại Paris hôm mùng bốn, rồi hội nghị các nhà lãnh đạo tài chính của nhóm G-7 trong hai ngày 10 và 11 tại thủ đô Hoa Kỳ. Kế tiếp là hội nghị mở rộng của nhóm G-7 với Liên hiệp Âu châu và 12 quốc gia có nền kinh tế mạnh nhất sau nhóm G-7 là Ấn Độ, Australia, Trung Quốc, Brazil, Liên bang Nga, Mexico, Nam Hàn, Saudi Arabia, Argentina, Indonesia, Nam Phi và Turkey. Đó là hội khị của khối G-20, quy tụ các nước sản xuất ra 90% sản lượng của toàn cầu. Qua ngày Chủ Nhật 12, ta có thượng đỉnh của lãnh đạo 15 nước Âu Châu trong khối Euro và Thủ tướng Anh; ta vốn biết Anh quốc không nằm trong khối tiền tệ thống nhất và không sử dụng đồng Euro. Chính là các kế hoạch cấp cứu của Hoa Kỳ và Âu Châu được công bố vào cuối tuần mới làm các thị trường xoay chuyển tạm gọi là khả quan hơn, hoặc ít ra là bớt hốt hoảng mà bán tháo.

 

Hỏi: Thưa ông, nội dung cấp cứu là những gì mà đem lại sự thay đổi ông gọi là tạm khả quan hơn"

 

- Sau kế hoạch cấp cứu trị giá 700 tỷ của Mỹ, rồi thượng đỉnh hôm mùng bốn của bốn đầu máy kinh tế mạnh nhất Âu Châu là Anh, Đức, Pháp, Ý, các thị trường chưa được trấn an và tuột giá mỗi ngày. Lý do chính là trong hoàn cảnh kinh tế toàn cầu hóa với quan hệ đầu tư nối kết các ngân hàng và doanh nghiệp các nước với nhau, các kế hoạch cấp cứu riêng lẻ của từng nước không giải quyết được vấn đề. Thí dụ cụ thể là kế hoạch cấp cứu của Hoa Kỳ có bảo lãnh cơ sở đầu tư của Âu Châu vào Mỹ không, hoặc đầu tư rất lớn của các nước Tây Âu vào các nước Đông Âu cũ thì sao" Nếu cứ theo nguyên tắc "đèn nhà nào nhà ấy rạng, mạng người nào người ấy giữ" thì người ta không ngăn được khủng hoảng tài chính và tiêu diệt luôn kinh tế thị trường giữa các nước với nhau. Vì vậy, các phiên họp cuối tuần qua mới tiến tới nguyên tắc tạm gọi là đồng bộ, dù chưa đạt một kế hoạch tổng thể và thống nhất thì cũng cho thấy nỗ lực chung giữa các nước. Đấy là một quyết định rất quan trọng về chính trị mà có khi ta không để ý.

 

- Thứ hai là về nội dung. Các nước Âu-Mỹ không chỉ bơm thêm thanh khoản hay tiền mặt vào thị trường để giải tỏa ách tắc tín dụng cho các ngân hàng và doanh nghiệp khỏi sụp đổ. Các nước thật sự mở rộng chế độ bảo đảm cho mọi cơ sở tài chính và còn đem tiền đầu tư thẳng vào phần vốn của các cơ sở này. Nói cho dễ hiểu thì chính quyền các nước đứng ra bảo lãnh và thay thị trường quyết định việc cấp phát tín dụng, hầu các doanh nghiệp cần vay tiền để duy trì sinh hoạt vẫn có thể vay được, và các ngân hàng hết sợ rủi ro mà dám cho vay mạnh mẽ hơn. Thoả thuận ấy đã phần nào trấn an thị trường và khai thông dần nạn tắc nghẽn tín dụng. Ta sẽ còn phải mất vài tuần mới thấy hết được tác động giải cứu rất mới và thật ra rất bất thường này.

 

Hỏi: Câu hỏi cuối trước khi ta qua phần hai là hậu quả cho các nước đang phát triển. Thưa ông, nỗ lực cứu nguy này có công hiệu hay không, tức là có đẩy lui được khủng hoảng hay không"

 

- Chúng ta chưa biết được vì tâm lý hoảng loạn của thị trường là cái gì đó mà mình khó đoán ra. Về thực chất, các kế hoạch ấy có hy vọng đẩy lui được khủng hoảng tài chính khiến hệ thống ngân hàng có thể vận hành tạm bình hòa và tăng thêm vốn kinh doanh. Tuy nhiên, ẩn số kinh hãi nhất vẫn là sự non yếu ít ai để ý của hệ thống kinh tế và tài chính Âu Châu. Người ta cứ tưởng rằng khủng hoảng bùng nổ tại Mỹ và lan qua Âu Châu chứ ít nhìn ra nhiều nhược điểm nội tại của các thị trường gia cư, tín dụng thứ cấp, ngân hàng và cả nạn bội chi ngân sách rất cao của nhiều nước Âu Châu. Cho nên, ta vẫn cứ phải chờ đợi nhiều đột biến bất ngờ trong hệ thống Âu Châu vào mấy tháng tới, nếu họ không thoát khỏi cơn khủng hoảng tài chính hiện nay.

 

- Trở lại kết quả chung cho kinh tế toàn cầu thì dù có đẩy lui được khủng hoảng tài chính, các nước vẫn không ngăn được nạn suy trầm kinh tế toàn cầu. Và cái giá rất cao phải trả cho việc cứu nguy tài chính ngày nay sẽ kéo dài tình trạng suy trầm, có khi dẫn tới suy thoái kinh tế trong suốt năm 2009. Đấy mới là kịch bản đáng sợ cho các nước đang phát triển hiện vẫn cứ tưởng là nằm ở ngoài tâm điểm của trận bão tài chính Hoa Kỳ và Âu Châu.

 

Hỏi: Thưa vâng, chúng ta bước qua phần hai của chương trình là hậu quả của vụ khủng hoảng này với các nước đang phát triển. Tình hình có thể nguy ngập tới mức nào"

 

- Kinh tế Âu-Mỹ không thiếu thanh khoản là tiền mặt, nhưng các ngân hàng, tức là hệ thống phân phối, bị ách tắc nặng vì mất niềm tin. Khi phải bơm thêm tiền và thay thế mạng lưới phân phối ấy để hồi phục thị trường, các nước Âu-Mỹ đều bị bội chi nặng và phải chấn chỉnh lại chi thu với nhiều mâu thuẫn có khi bùng nổ sau khi vượt qua cơn hốt hoảng hiện nay. Kinh tế Âu và Mỹ lại là thị trường nhập khẩu và nguồn đầu tư đáng kể cho các nước đang phát triển. Vì vậy, khủng hoảng tài chính rồi suy trầm kinh tế kéo dài sẽ đánh sụt lượng xuất khẩu của các nước đang phát triển và vét cạn nguồn đầu tư vào các nước này. Có khi nó còn gây phản ứng bảo hộ mậu dịch và tiêu diệt luôn vòng đàm phán Doha của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.

 

- Hậu quả là mức tăng trưởng của toàn cầu và nhất là của các nước sống nhờ xuất khẩu sẽ giảm mạnh, mà càng lệ thuộc vào xuất khẩu thì càng suy sụp. Ngược lại, điều này cũng cần được nhìn ra, trong hoàn cảnh suy trầm toàn cầu thì giá thương phẩm như nguyên nhiên vật liệu hay nông sản ngũ cốc cũng giảm. Nhờ vậy mà các nước đang phát triển sẽ bớt bị nguy cơ lạm phát từ bên ngoài vào. Nhưng nếu vì chế độ quản lý vĩ mô quá lỏng lẻo bên trong khiến tín dụng và tiền tệ tăng vọt trong quá khứ, thì họ vẫn bị lạm phát vì lý do nội tại. Và trong hoàn cảnh sản xuất suy trầm, bội chi ngân sách gia tăng cùng khiếm hụt mậu dịch, tức là bị nhập siêu và thiếu ngoại tệ, việc quản lý kinh tế còn khó khăn gấp bội. Hậu quả là năm 2009 này có thể thấy hàng loạt nhiều vụ khủng hoảng ngoại hối và các nước có dự trữ ngoại tệ thấp sẽ bị trước tiên và nặng nhất.

 

Hỏi: Trong nhiều chương trình vừa qua và ngay vừa rồi, ông nói đến khủng hoảng về ngoại hối, thính giả có thể muốn biết khủng hoảng đó là gì để còn phòng ngừa.

 

- Tôi xin lấy thí dụ thẳng vào chuyện Việt Nam. Trong năm tới, đà tăng trưởng suy ra toàn năm của kinh tế thế giới có thể chỉ còn từ 2,7 tới 3%, nghĩa là mấp mé định mức chính thức của nạn suy trầm toàn cầu theo quan điểm của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF. Trong hoàn cảnh ấy, với cơ cấu kinh tế lệ thuộc vào xuất khẩu tới 60%, chủ yếu là xuất khẩu vào hai thị trường Hoa Kỳ và Âu Châu, Việt Nam sẽ bị suy trầm nặng. Tốc độ tăng trưởng có thể chỉ còn chừng 5% chứ không được 6% như người ta dự đoán vào tháng trước.

 

Hỏi: Trong hoàn cảnh đó, các nước đang phát triển hay Việt Nam có thể làm được những gì"

 

- Khi tốc độ tăng trưởng giảm sút như vậy, người ta có thể bơm thêm tiền vào kinh tế bằng cách hạ lãi suất ngân hàng, hoặc có thể tăng chi để kích thích sản xuất. Nhưng làm như vậy thì lại bị kẹt vì áp lực lạm phát và bội chi ngân sách. Mà càng hạ lãi suất lại càng làm đồng bạc Việt Nam mất giá so với đô la. Trong khi ấy, Việt Nam bị nhập siêu nặng mà nếu xuất khẩu còn suy sụp thì mức nhập siêu sẽ chỉ tăng chứ không giảm. Khối dự trữ ngoại tệ vì vậy còn hao hụt thêm.

 

- Vả lại, số đầu tư nước ngoài được giải ngân theo tiến độ dự trù trước đây sẽ chậm hẳn lại nên Việt Nam sẽ thiếu ngoại tệ trầm trọng và Mỹ kim sẽ còn lên giá rất mạnh. Ngược lại, suy trầm tại Mỹ cũng tác động thẳng vào Trung Quốc, là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, nên ảnh hưởng đến đồng Nhân dân tệ theo hướng bất lợi cho Việt Nam. Vì vậy ta nên e sợ là Việt Nam sẽ bị khủng hoảng ngoại hối và khối dự trữ ngoại tệ quá mỏng sẽ không vực được giá của đồng bạc Việt Nam. Người ta nên e sợ điều ấy hơn là sự suy sụp của thị trường chứng khoán!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.