Hôm nay,  

Nhớ Về Thầy Nguyễn Văn Sở

28/01/201400:00:00(Xem: 8358)
Sáng Thứ Năm 23 Tháng 1, 2014 tôi đang làm việc tại sở làm như thường lệ bổng cái điện thoại cầm tay báo hiệu có email mới. Tôi vội mở ra xem có gì quan trọng hay không. Tôi ngỡ ngàng đọc những dòng không vui do một cựu giáo sư của thời trung học cho hay Thầy Nguyễn Văn Sở đã được đưa vào bịnh viện cấp cứu đêm hôm trước. Và bác sĩ bảo rằng Thầy sẽ không sống được bao lâu, chắc nội trong ngày là Thầy sẽ ra đi vì đã bị xuất máu trong não rất trầm trọng. Tôi biết Thầy Sở lâu nay có bịnh, nhưng không ngờ Thầy ra đi quá sớm và nhất là căn bịnh trên và vào những ngày gần Tết như hôm nay. Tôi thật sự xúc động vì biết từ đây mình sẽ mất đi một người Thầy khả kính gần như một người Anh cả. Mà đúng vậy! Có nhiều lần tôi có nghe Thầy khiêm nhường xưng Anh với chúng tôi là đám học trò của Thầy vào thời trung học. Nay Thầy đã trên 70 và chúng tôi thì đứa nào hôm nay cũng trên lục tuần!

Tôi không có may mắn học một lớp Anh Văn nào với Thầy Sở khi Thầy còn dạy ở trường trung học Kỹ Thuật Đà Nẵng (KTĐN) vào những đầu năm 60. Khi tôi từ trường trung học Phan Chu Trinh thi và lớp Đệ Ngũ KTĐN niên khóa 1965-66 thì Thầy đã chuyển đi nơi khác. Cũng như mọi thanh niên khác vào thời chiến Thầy đã nhập ngũ, được biệt phái về lại dạy Anh Văn. Rồi Thầy du học Hoa Kỳ nhiều năm, về lại dạy tại trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt v.v Phần tôi thì đi lưu lạc ra nước ngoài sau khi đậu tú tài. Cho đến lúc nầy thì hai thầy trò chúng tôi chưa biết nhau.

Mãi cho đến khi tới Hoa Kỳ và chọn Nam California làm nơi dừng chân cho trạm chót của cuộc đời thì cái duyên đã đến với nhau. Đó là lúc khi các cựu giáo sư và anh em cựu học sinh trường trung học KTĐN “nhóm họp” thì tôi mới quen biết Thầy. Kể từ đó chúng tôi sinh hoạt thường xuyên như một “nhóm ái hữu” và đã có nhiều kỷ niệm không quên.
resized-gs-nguyen-v-so-thayso1
Thầy Nguyễn Văn Sở.

Như đã nói ở trên Thầy Nguyễn văn Sở đâu chỉ có dạy tại trung học KTĐN mà thôi. Sự nghiệp giáo chức và kiến thức về Anh Văn của Thầy đã đem Thầy đến nhiều nơi, nhiều đại học. Và dĩ nhiên trước 1975 thì Thầy đã đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng tại Đà Lạt. Cũng chính vì thế mà khi bị kẹt lại năm 1975 Thầy đã phải trả một giá không nhỏ cho các việc làm liên quan đến Mỹ của mình. Vì đi du học Mỹ và có bằng cấp cao, cộng sản đã bỏ tù Thầy nhiều năm dù rằng lúc đó Thầy có cơ hội di tản. Nói về số phận của cuộc đời trong việc nầy, có một giáo sư khác cùng dạy một trường trước kia ở Đà Nẵng với Thầy Sở kể cho tôi nghe rằng lúc vào tù năm 1976 hai ông ở chung với nhau tại trại Long Giao. Sau đó thì vì có lý lịch nêu trên Thầy Sở được phân loại và di chuyển đến một trại tù khác. Lúc đó vị giáo sư kia có viết một lá thư nhờ Thầy Sở đem về trao lại cho vợ mình vì nghĩ là Thầy Sở được ra trại. Mãi đến mấy năm sau khi được thả ra về vị giáo sư mới được người vợ cho biết rằng đâu có nhận được thư từ gì đâu. Té ra mới biết là Thầy Sở lúc đó đâu có được thả ra” mà bị di chuyển lên vùng cao nguyên nước độc vì có dính liếu đến Mỹ! Khi ở tù tại Long Giao, Thầy Sở có mang một cặp kính rất dày. Sau khi cả hai cùng ra tù, vị giáo sư kia đến nhà thăm thấy Thầy Sở không còn mang kính mới hỏi là sao dạo nầy anh không mang kính nữa? Lúc đó Thầy Sở nhìn ông trả lời mĩa mai “bây giờ sáng mắt ra rồi”! Âu cũng là một kỷ niệm khó quên cho hai vị giáo sư của tôi.

Thầy Sở còn là hội viên của nhiều tổ chức tại Nam California, như Võ Bị Quốc Gia Đà lạt, Hội Việt Mỹ v.v mà tôi không được biết hết.

Khi định cư tại Mỹ, Thầy đã được mời vào dạy Anh Văn tại trường Orange Coast College mãi đến khi Thầy về hưu vài năm gần đây. Tôi biết chắc rằng với tin Thầy ra đi sẽ có nhiều giáo chức và học sinh của Thầy tại Orange Coast College thương tiếc không thua gì chúng tôi.


Còn nhóm nhỏ của chúng tôi từ nay sẽ thiếu vắng một người Thầy bóng dáng cao ráo, tính tình hiền lành, những lời thăm hỏi chân tình, những ý kiến, lời khuyên đứng đắn. Nói chung là thiếu đi hình ảnh một nhà giáo theo đúng nghĩa của nó. Tư cách, bóng dáng đó thời VNCH thì chúng ta không thiếu, nhưng bây giờ có lẽ phải thắp đuốc đi tìm trong đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.

Chúng tôi không quên những lần đi chơi với Thầy Sở. Những lần đi thăm đảo Catalina ngoài khơi California, đi uống thử rượu vang tại Temecula, đi San Diego thăm chiến hạm USS Midway Museum mà vào thời điểm tháng Tư 1975 đã đậu ngoài khơi VN vớt đồng bào di tản, đi núi Big Bear, đi Las Vegas. Và sô số những lần Tân Xuân Hội Ngộ.
resized-gs-nguyen-v-so-gshsktdn
Cựu GS và Học Sinh KTĐN chụp hình lưu niệm sau khi viếng thăm Thầy Sở ở Peek Funeral Home, Westminster, CA.

Vì là người trí thức nên sau cơn trọng bịnh về bao tử Thầy Sở đã tìm ra cho mình cách đối phó” với căn bịnh ngặt nghèo nầy. Thầy rất chừng mực và không buồn phiền lo âu thái quá mà trái lại Thầy lại tham gia các hoạt động văn hoá khác như hội nhiếp ảnh đẹp. Có lần phải đi xa, dậy sớm thức khuya mà Thầy vẫn làm được như thời còn trai trẻ. Và các tác phẩm của Thầy được chọn triển lảm cuối năm ngoái tại hội trường báo Người Việt.

Thầy phải mổ bỏ đi một phần bao tử rồi từ đó lấy bút hiệu cho mình là Stomachless”, một cái tên rất dể thương nói lên hoàn cảnh của mình. Thầy có một bài viết rất hay đăng trên Nhật báo Người Việt là “Già Ơi Chào Mi”, và vô số các bài đăng trên nhật báo, đặc san, tuần báo v.v.

Ngày thứ Tư 22 tháng 1 năm 2014, buổi sáng Thầy còn sinh hoạt như thường lệ. Lúc gần trưa Thầy rời nhà đi lo giải quyết vấn đề bảo hiểm rồi sau đó đi rửa xe. Khi đến trạm xăng thì Thầy Sở cảm thấy rất khó khăn khi muốn nhất một chân lên. Linh tính cho biết có chuyện không hay, Thầy liền gọi điện thoại cho cô con gái. Trong khi hai cha con chưa hoàn tất cuộc điện đàm thì đầu dây bên kia cô con gái không còn nghe Ba mình trả lời nữa. Cô vội vàng chạy đến thì người ta đã cho xe cứu thương chở Thầy vào nhà thương. Thầy Sở đã nhanh chóng gọi 911 trước khi mình yếu đi. Khi cô con gái vào nhà thương thì Thầy đã gần như không còn biết gì nhiều. Rồi từ từ Thầy hoàn toàn không còn biết gì nữa.

Chúng tôi rủ nhau đi thăm Thầy ngay tại Hoag Hospital, một bệnh viện nổi tiếng tại Orange County, California, thuộc thành phố Newport Beach. Nơi đây Thầy Sở đã ra vào nhiều lần trong quá khứ với căn bệnh bao tử của Thầy. Tất cả chúng tôi vây quanh bên Thầy, nhìn Thầy nằm đó mà không nói được lời nào, ai nấy đều thấy buồn mênh mang. Mới đó mới đây mà bây giờ Thầy chỉ là như vầy hay sao? Nhìn chung quanh giường bịnh các dây nhợ, máy móc đang làm việc để mang lại cho Thầy những hơi thở cuối của cuộc đời.

Nghe đâu khi cậu con trai duy nhất từ Boston bay gấp về trong ngày để nhìn mặt người cha lần cuối thì gia đình đã để Thầy ra đi bình an, thanh thản vào ngày Thứ Năm 23 Tháng 1 năm 2014 nhằm ngày 23 tháng Chạp năm Quý Tị. Trên đường về lại khu Little Sài Gòn, phố Bolsa vẫn tấp nập người qua lại lo cho những ngày Xuân sắp về. Duy chỉ có anh em chúng tôi cảm thấy Tết năm nay sẽ không có một Tân Xuân Hội Ngộ tràn niềm vui như mọi năm.

Những kỷ niệm với Thầy Nguyễn Văn Sở qua những năm quen biết Thầy đã làm tôi và tất cả các bạn bè rất trân quý, dù nay thấy thiếu vắng một cái gì.

Chúc Thầy ra đi bình an và sớm về cõi Vĩnh Hằng.

Võ Văn Thiệu

Orange County, California những ngày cuối của năm Quý Tị

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.