Hôm nay,  

Mộ Khúc Serenade

13/01/201700:03:00(Xem: 8419)

Mộ Khúc Serenade
  

Sean Bảo

 
blank

Chủ nhật mùa hè 1826, buổi chiều nghiêng, nắng nuối tiếc rớt vài giọt vàng hấp hối. Trời đà thăm thẳm tím, chút tím vàng pha ráng hồng. Vài cánh chim lao xao khi ánh đèn thắp lên cuối làng. Những hàng sồi run rẫy. Người vẫn đi lang thang chưa muốn về. Nhưng chân đà mỏi và tim bồi hồi khát vọng mơ hồ. Cái khát vọng khó tả của người nghệ sĩ. Quán bên đường đã xôn xao tiếng người, cuộc vui như thường lệ của đời sống vào ngày cuối tuần. Những thửa lúa mạch đã gặt xong và con người như muốn gần nhau hơn khi nhàn rỗi. Tiếng cười nói cụng ly rộn ràng mời gọi, những ly bia đen sóng sánh bọt vàng trong ánh chiều. Những đôi nhân tình nắm tay khuất sau hàng giậu, trả lại những vạt nắng chiều dang dở cho kẻ cô đơn lang bạt. Schubert ngồi xuống cùng nhóm bạn, sau hàng rào ô liu thơm mùi cây trái. Vài cô gái trên hàng hiên cất quần áo đã khô nồng mùi nắng gió. Vài cô tựa ban công nhìn trời...

Schubert chạnh nhớ. 10 năm trước, trăng lưỡi liềm nhú lên trong vườn khuya. Không gian im ắng ngoại trừ tiếng con chim sơn ca lạc lõng hót. Tiếng hót giữa muôn trùng áo não thiết tha. Schubert đứng cạnh bên nàng Therese Grob, áo đầm phồng phủ trùm đôi chân nhỏ ngực nàng phập phồng trong chiếc corset bó sát, ánh trăng mờ soi những đường cong sáng trên làn da mịn. "Vì sao chàng không tiếp tục chơi đàn trong khánh phòng?" Nàng hỏi. "Đêm tha thiết gọi tôi ra đây!" Schubert trả lời. Nàng khẽ quay gót.” Xin đừng đi". Schubert nói khẽ. “Em chỉ đi dạo tí thôi.” Nàng dừng lại đợi. Schubert cầm tay nàng và bước theo, mắt không ngừng nhìn trời. Mặt chàng như thất thần và trống vắng. “Chàng đang nghĩ gì vậy?” Chàng quay lại và nói khẽ như thú tội. “Chỉ là một giai điệu, nó cứ âm vọng trong đầu.” Hát cho em nghe đi. Chàng từ chối: "Chưa đâu! bài hát chưa xong." Mắt chàng lại ngước lên khoảng không. “Khi nào xong chàng sẽ hát cho em nghe chứ!” “ Dĩ nhiên!” Chàng đáp. "Chàng chưa bao giờ tặng em bài gì cả, chưa có một bài ca ngắn ngủi nào cho em cả.” Nàng hờn dỗi. Ngực nàng thổn thức chừng như đón đợi giọt nước mắt long lanh. "Tấc cả đều dành cho nàng. Các ca khúc trong 3 năm vừa qua khi chúng ta yêu nhau.” Chàng trìu mến quay nhìn mặt nàng. Nàng không nhìn lại. “Tôi sẽ hát cho em khi trở lại.” Chàng hứa. Nàng vẫn còn hờn dỗi nhưng chừng như an lòng. “Giờ anh phải đi! một ca khúc đang gọi mời anh. Anh đã gần gũi ca khúc này lắm, dường như nắm chặt nó trong đầu.” “Dành cho em chứ?” Nàng nhắc lại trong mơ hồ nghi hoặc. Rồi nàng chợt hỏi: “Mà sao mọi khi các ca khúc chàng làm nhanh lắm? Không như ca khúc này.” “ Đúng vậy, ca khúc này sẽ không như bao ca khúc khác. Nó sẽ ngọt ngào, sẽ nhẹ nhàng xa vắng, sẽ tinh khôi như tuyết đầu mùa, như lộc non cựa mình. Giai điệu đang réo gọi anh..”Chàng lại thì thầm như mộng du. Nâng bàn tay nhỏ xinh trong tay áo lụa phồng, chàng khẽ hôn lên và quay bước. Bóng chàng khuất trong bóng đêm, tiếng bước chân như lá rơi…

Nàng và Schubert đang đắm trong mối tình đầu ngất ngây. Cả hai đều che giấu một thực tế nghiệt ngã. Cha nàng mất sớm, người mẹ góa bụa phải trông nom một xưởng  tơ lụa nhỏ, cách không xa ngôi nhà của Schubert. Nàng có một giọng ca trong veo quyến rũ, làm ngất ngây những buổi sáng chủ nhật trong nhà thờ, nơi Schubert hàng tuần đến dự như con chiên ngoan đạo. Em trai nàng là một tay đàn piano và violon có năng khiếu. Âm nhạc đã vang lên giữa hai gia đình như sợi tơ duyên vô hình quấn quít. Thế nhưng chàng vẫn chưa có danh phận và tiền bạc. Luật lệ khắc khe buộc hôn nhân phải được bảo đảm bằng nghề nghiệp cơm áo vững chắc. Năm 1816 khi ấy Schubert tròn 19 tuổi mộng đầy mà tay trắng, chàng đệ đơn lên tòa án thành phố xin cưới nàng. Tòa bác đơn.

...

Ly bia mang ra sóng sánh đầy. Schubert nâng cạn cùng bạn bè. Tay chàng lau bọt bia trên miệng, ly bia ngon làm lòng hứng khởi. Chợt ánh mắt chàng rơi xuống cuốn thơ của Ludwig Rellstab mở sẵn trên bàn. Bạn của chàng đang đọc dở dang. Bài thơ Serenade - Mộ khúc. Như nam châm chàng bị cuốn hút vào những dòng thơ. Khuôn mặt chàng biến đổi, khi giãn ra khi dằn vặt, chàng cười mĩm rồi ngâm nga nhè nhẹ. Rồi chàng ngẩn lên nhìn quanh vào trời chiều. Xung quanh ồn ào tiếng người cười nói. Đèn sáng trong vườn quán và bóng chiều tím sẫm như ly rượu vang. "Đưa tôi cây bút chì!" Mắt chàng sáng rực, tay run rẫy. Ai đó đưa chàng cây bút, một tờ hóa đơn với vài khung nhạc kẽ vội ở mặt sau. Bạn bè lơ đãng tiếp tục cạn ly nói cười. Vài phút sau Schubert ngẩn lên, chiếc gọng kính nhấc lên trán, chàng khẽ ngâm nga và cất vội tờ giấy vào túi áo. Đám bạn vây lại đòi xem . "Không dành cho các bạn!" Chàng đáp: "Đã lâu tôi tìm kiếm bài ca này, qua núi cao, trong bão giông, trong bình minh, nhưng giờ mới gặp." Chàng lắp bắp như nói với chính mình, giai điệu mộ khúc âm vang trong hồn:    

                                                                   

Chiều buồn nhẹ xuống đời
người tình tìm đến người
thấy run run trong chiều phai…

 

Schubert như thấy mình đứng trong vườn khuya kỷ niệm. Mối tình đầu xanh xao như ánh trăng non, đủ soi sáng ánh mắt nàng xanh lơ và mái tóc vàng trong đêm, khi nàng tựa ban công nhìn về xa thẳm. Trong bóng tối phủ vây tứ bề của hàng sồi, buổi chiều tạ từ để đêm xuống mang nỗi tự tình lao xao run rẫy. Chàng đứng đó dưới ban công nhà nàng, cất tiếng ca trong bóng đêm như đồng lõa, che giấu đi nét ngại ngùng tỏ tình.

Vẻ sầu của đóa cười
tình bền của lứa đôi
thoáng hương trong chiều rơi...

 

Lá cây trên cao lao xao cùng tiếng chim về tổ. Thoảng nghe tiếng con chim sơn ca hót thảnh thót giữa yên ắng của đêm. Tiếng chim lạc lỏng thiết tha như tiếng lòng chàng thổn thức cho mối tình tuyệt vọng. Buổi chiều chết lịm êm ả. Cho hoàng hôn đến cô liêu. Cho người cần người, những tiếng yêu thương.

Chiều nay hát cho xanh câu yêu đời
cho người thôi khóc thương ai!
Cho niềm yêu đến bên tôi!

 

Và chàng hát thì thầm khúc nhạc chiều. Dạ khúc hay mộ khúc? Giai điệu ru mơ như chiều xuống, giai điệu êm ả như khuya rơi, giai điệu thanh thoát như tình buông. Tiếng đàn trầm gót chân hò hẹn. Cung thứ buồn lãng đãng giọt thương. Sầu riêng tư gởi gắm muôn phương. Cho tình cũ hay dặm trường nhân thế.  

 

Một ngày đó tóc mây đã phai màu
Có chờ ta oán trách đâu?
Có vì duyên kiếp không lâu

 

Yêu nàng khi còn thơ, mối tình đầu ngu ngơ. Nay chàng 29 tuổi nhưng chàng đã nhuốm bệnh. Thất vọng vì âm nhạc và đời nghệ sĩ chẳng đem đến danh vọng sự nghiệp. Chàng hối hả sống và sáng tác. Một sự nghiệp sáng tác lấp đầy dòng nhạc cổ điển trử tình Châu Âu. Những dàn hợp xướng, những bản nhạc kịch. Những đoản khúc ngợi ca tình ái. Ngay cả Beethoven trong những ngày cuối đời trên giường bệnh đã cảm thán khi đọc những dòng nhạc của Schubert: “Thật là một thiên tài ẩn náu trong Schubert này!” Vậy mà tấc cả vẫn chưa đem đến kịp cho chàng cuộc sống phong lưu. Một mái ấm hôn nhân. Và chàng nhuốm bệnh phong tình qua những cuộc chơi. Chàng tiếp tục tiêu pha hết đời mình vội vã. Như sợ chiều sẽ đến sớm và đêm thì không dài.  

   

Đời sẽ thấy chúng ta sống không cầu
Cho tình cứ úa phai mau 
cho người cứ mãi phụ nhau...(*)

 

Schubert vứt bút và bỏ đám đông rảo bước về. Đêm đặc quánh những thôi thúc huyền ảo. Tiếng đời thôi còn lao xao sau lưng. Con đường về gập ghềnh trong đêm vắng. Cô đơn đi với âm giai, vương vấn trong lòng. Một khúc nhạc chiều ra đời, đẹp ngời hơn cả chuyện tình riêng tư của chàng. Bởi chàng đã tìm thấy cứu cánh trong âm nhạc. Âm nhạc đã giải thoát xác thân nghèo nàn. Ca khúc ngỡ chỉ dành cho Theresa đã trở thành cho các tình nhân. 4 năm sau thì nàng đã thành hôn với một người chủ tiệm bánh. Lời hứa năm xưa đã mãn nguyện. Giai điệu thai nghén 10 năm trong cuộc tình đã bật ra một chiều. Một giai điệu êm ái mà thiết tha, sâu lắng mà đậm đà, không hờn trách tuyệt vọng, đã trở thành giai điệu bất tử cho đời.

Hai năm Schubert từ biệt cõi đời một buổi chiều, chàng vừa qua tuổi 31. Hai năm sau khúc hát được đưa vào tuyển tập Bài ca thiên nga, những khúc hát của con chim thủy chung, mang vũ khúc hân hoan đến phút cuối cùng, trên mặt hồ đời sống áo cơm đầy sóng vỗ. Mộ khúc mãi còn đó đẹp như một bản tình ca bất tử. Cái đẹp đi thẳng vào lòng người không cần giải bày. Đẹp đến thiên thu. Chừng nào trái đất còn quay, chiều rơi mỗi ngày và người tìm đến người.




Ý kiến bạn đọc
14/01/201702:10:28
Khách
Đã lâu mới đọc được những dòng văn chương
êm ả, tình tứ.

Có đoạn như kéo luôn sự say sưa thả lỏng của
cảm xúc.

Đưa người đọc về kỷ niệm man mác một thời.
Để lại cho người đọc một chút sững sờ, tiếc nuối.
13/01/201711:56:39
Khách
Đã 30 năm tôi mới được tiếp xúc trở lại với dòng văn học lãng mạn đặc sắc mang âm hưởng của thế kỷ 19 , đầu thế kỷ 20 .
" Bóng chiều tím sẫm như ly rượu vang "

"Mối tình đầu xanh xao như ánh trăng non, đủ soi sáng ánh mắt nàng xanh lơ và mái tóc vàng trong đêm, khi nàng tựa ban công nhìn về xa thẳm. "

"Đêm đặc quánh những thôi thúc huyền ảo. Tiếng đời thôi còn lao xao sau lưng. Con đường về gập ghềnh trong đêm vắng. Cô đơn đi với âm giai, vương vấn trong lòng."

Văn chương chất chứa thì ca , âm nhạc , hội hoạ làm nền tảng của xúc cảm mà chỉ có đôi mắt của người nghệ sỹ mới quan sát tình tế đến như thế .

Lời kết của án văn rất gần gũi với " HOA DẠI " , mạng tính triết lý cuộc đời !
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.