Hôm nay,  

Thảm Cảnh Vượt Biên: Tội Ac CS

11/26/201900:00:00(View: 4768)

(Viết theo lời kể của người bạn tù cải tao vượt biên)

Chưa có một dân tộc nào khi đất nước vãn hồi hòa bình thống nhất đất nước lại có nhiều người bỏ nước ra đi tìm tự do nhiều như dân tộc VN. Sự ra đi vĩ đại và mất mát đau hương nhất trên đường bộ nơi rừng sâu nước độc hoặc trên những con thuyền bé nhỏ lênh đênh trên bỉển cả giữa lòng đại dương  ngoài việc không may bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp tủi nhục hoặc bị gió to sống lớn khiến không may bị đắm thuyền làm mồi cho cá ăn hoặc vùi thây dưới đáy lòng biển cả, Sự chết chóc vô cùng to lớn và khủng khiếp này đã đánh đông lương tâm nhân loại.

Thật vậy thử hỏi còn gì đau buồn và thống khổ cho bằng không ai nỡ lòng cam tâm rời bỏ quê hương xứ sở yêu quý của mình đến một đất nước xa lạ khác hẳn hoàn toàn về ngôn ngữ, phong tục và tập quán để sống một cuộc đời lưu vong bất đắc dĩ. Hỏi tức là trả lời. Thử hỏi đất nước mình phải như thế nào mà người dân lại mất hết niềm tin và hy vọng nên họ đã quyết tâm tìm sự sống trong sự chết dể cứu vãn đời mình và tương lai con cái mình. Do đó đã phát sinh ra phong trào việt biên, vượt biển rầm rộ đến nỗi Ca sĩ Hùng Cường sau bao lần vượt biên mới thoát khỏi gông cùm CS đã không ngần ngại thổ lộ hết tâm tình của mình” nếu cột đèn mà biết đi, nó cũng không từ nan”. Sau đây trường hợp vượt biên của một bạn tù cải tạo trải qua 3 lần gian nan khổ cực mới may mắn đến được bến bờ tự do.

Anh là tù nhân cải tạo được may mắn  CS tha về sớm khoảng năm 1980, nhưng vì không chịu nối dưới ách thống trị tàn bạo, tập trung bỏ tù không bản án những Quân dân, cán chính VNCH của chế độ cụ dưới hính là :”Trại cải tạo”, bần cùng hóa nhân dân miền Nam VN với chính sách đổi tiền liên tục đánh tư sản mại bản, cảo tạo Công thương nghiệp,,ép buộc nhân dân đô thị đi “Vùng kinh tế mới” dưới hình thức đem con bỏ chợ để CS có thể cướp nhà cướp của của nhân dân miền Nam VN.Ngoài ra CS còn thi hành chính sách nhân biêt đối xử trả thù thâm độc với với những người làm việc cho chế độ cũ và gia đình họ như công dân hạng 2 của chế độ. Vì không chịu nổi dưới ách thống trị tàn bạo của CS nên anh đã không ngần ngại tìm cách thoát khỏi chế độ bằng con đường vượt biển để tự cứu đời mình và tương lai cho con cái mình.

Qua 3 lần vượt biên dở khóc dở cười và 2 lần anh đã may mắn chạy thoát khỏi sự đuổi bắt gắt gao và nguy hiểm của bọn CS trong đường tơ kẽ tóc, lần cuối cùng anh mới đến được bến bờ tự do như  ý nguyện.

Được biết lần vượt biên lần thứ nhất khoảng tháng 8 năm 1982 là thời gian tốt nhất cho những người có ý định vựơt biên vi biển yên lặng, không gió to sóng lớn, anh nằm trong một nhóm người đang thực hiện ý định vượt biên trong một đêm tối trời đến điểm hẹn tại núi Thị Vải (Bà Rịa) để tập trung chuyển ra ghe lớn đi ra biển, nhưng bị trễ 1 giờ đồng hồ nên đường dây đưa người vượt biên bị bể, đám Công An CS bủa vây truy bắt,gắt gao nên mọi người mọi mạnh ai nấy đều tìm đường trốn chạy. Anh bạn tù vừa chạy thục mạng vừa thầm nghĩ mình mới ở trại tù trở về, nếu không may lại bị VC bắt được, lại cộng thêm tội vượt biên nữa chắc sẽ bị chúng giam cầm, đầy ải khổ sở hơn trước rất nhiều.Vì trời tối đen như mực, anh chạy băng qua cánh đồng trống mênh mông khoảng 10 cây số,băng cả qua khu rừng lau rậm rạp, vừa chạy anh vừa niệm Phật Quán Thế Âm Bồ Tát hầu cứu anh thoát nạn vì anh là người ngoan đạo, hơn nữa quá mệt mỏi nên anh phải dừng lại, anh lấy tay quờ quạng về phía trước dường như cảm thấy có một gốc cây, anh bèn nàêm im lặng bên cạnh gốc cây đó đồng thời lại thấy lờ mờ phía trước có 2 đốm sáng anh đoán có lẽ là 2 con mắt của thú rừng, dường như là của heo rừng thì đúng hơn, ngoài ra anh còn thấy lờ mờ một người lính vác súng đi qua đi lại bên cạnh lô cốt anh đoán có lẽ là trạm gác của du kích địa phương nên anh sợ quá không dám đi nữa và anh đã nằm yên bất động sau gốc cây đó để được an toàn hơn. Vì quá mệt mỏi nên anh đã ngủ thiếp đi bên cạnh gốc cây lúc nào không biết cho tới sáng.mới thức tỉnh. Khi tỉnh dậy anh tưởng rằng mình đã trải qua một giấc mơ kỳ lạ gần như huyền thoại mà cho tới giờ phút này anh vẫn chưa lý giải hết được sự việc. Bởi vì anh quá ngạc nhiên khi không thấy một gốùc cây nào cũng như lô cốt trạm gác của du kích địa phương nào mà anh đã mường tượng trươc ùđây, Nhưng điểm đặc biệt làm anh hoảng hồn khiếp đảm nhất là anh quá may mắn đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc bởi vì nếu anh không quá sợ hãi đểõ dừng chân lại mà cứ tiếp tục đi về phía trước chỉ khoảng 2 bước chân nữa thôi thì anh đã lọt xuống hố bom sâu thăm thẳm (được gọi là cái đìa) còn gọi là hố “ Tử Thần” thì đúng hơn thì chắc anh khó bảo toàn được tính mạng, chết rục xương dưới cái hố oan nghiệt đó không ai biết tới. Bây giờ chỉ còn lai mình anh đơn độc đứng trơ vơ giữa một cánh đồng trống mênh mông không định hướng nên không biết được đường nào để trở về nhà. Sau một phút định tâm suy nghĩ, anh bèn quyết định đi từ hướng chân núi Thị Vải ra phía ngoài. Vi đường đất có lẫn cát nên anh đi chân không cũng không đến nỗi vất vả vì dép anh đã bị văng mất trong cuộc trốn chạy, anh đi chân không như vậy khoảng thêm 2 tiếng đồng hồ nữa mới ra tới đường cái để đón xe đò trở về nhà ở Saigon.

Anh lơ xe đò hỏi anh muốn đi về đâu, anh đã nhanh trí trả lời: cho tôi về Long Thành. Xuống xe anh liền đi tản bộ kiếm một quán ăn tại Long Thành để ăn sáng hầu phục hồi lại sức khỏe và còn kêu thêm một ly cà phê để thưởng thức cho tinh thần được ổn định tỉnh táo trở lai, ngoài ra việc phải làm chủ yếu đầu tiên là anh phải tìm mua cho được một đồi dép để đi lại bình thường cho được yên tâm hơn. Sau đó anh lai đi tản bộ ra đường cái đón xe đò lần 2 trở về Saigon. Khi xe chay tới gần trạm kiểm soát bến xe đò miền Đông khoảng 200 mét, anh liền xuống xe đi về hướng nhà dân, đi khoảng 100 mét anh nhận được tin Tram kiểm soát đã bắt giữ khoảng 30 người gồm đàn ông, dàn bà, trẻ em  chân không đi dép thì ra đám CA Cộng Sản ở trạm đã được bọn CA ở tỉnh Bà Rịa thông cáo cho họ biết trước tin có một nhóm người vượt biên đang trốn chạy, chân không mang dép tìm cách đón xe đò về Saigon nên chúng mới kiểm soát gắt gao và bắt giữ được một số lượng người lớn như vậy. Thật quá may mắn cho Anh, nếu anh không tiên liệu trước, có lẽ anh cũng cùng chung số phận như những người bị CS bắt được nói trên. Anh vội đi vòng qua hẳn trạm kiểm soát, anh mới dám đón xe đò để tiếp tục trở về Saigon như lần trước một cách xuông sẻ bình an vô sự, Anh luôn cám ơn Thượng Dế đã cứu sông đời anh vì anh là người ngoan đạo và cho tới giờ phút này anh cũng không lý giải được tại sao anh lại có thể lanh trí hầu thoát được mọi hiểm nguy trong gang tấc như vậy. Ở nhà được một thời gian ngắn, anh cảm thấy khó sống được dưới chế độ CS vô nhân tính nên vì an nguy của bản thân  vì tương lai của cuộc đời ,anh đã không ngần ngại, bất kể hiểm nguy lại quyết tâm tiếp tục vượt biên lần 2 hầu mong làm sao có thể thoát khỏi địa ngục trần gian của CS. Lần này Anh cũng phải trải qua một giai đoạn thật gian nan và khổ ải không kém lần vượt biên trước dù mất khá nhiều về tiền bạc nhưng anh vẫn không nản lòng. Với  quyết tâm và ý nguyện sẵn có, đến vượt biên lần thứ 3 cuối cùng, anh đã may mắn mới đến được bến bờ tự do khoảng năm 1983: đảo

PULAU BIDON, NHỮNG NGÀY THÁNG CỦA ƯƠC MƠ

Anh làmột thuyền nhân tỵ nạn trên tàu dầu Hà Lan trong số 324, thuyền nhân được sắp thành hàng dài chuẩn bị bước lên chiếc thuyền màu xanh dương được Cao Ủ Tỵ Nạn phái ra để đưa mọi người . vào đất liền. Những lời từ giã tỏ lòng biết ơn của mọi người vượt biên đối với thuyền trưởng và thủy thủ đoàn tầu dầu Hòa Lan thật vô cùng cảm động. Mọi người cùng nhau vẫy tay chào tiễn biệt con tàu lần cuối.cùng. Thuyền Trưởng dùng loa phóng thanh gởi lời chúc mọi người được bình an và được mọi may mắn trên đất tam dung. Thuyền chở mọi người bỏ neo đậu sát cây cầu dài bắt vào đất liền..

Bidon là mảnh đất tạm dung cho người tỵ nạn, cây cao bóng mát, với những lều trại san sát bên nhau, đoàn người tị nạn được tập trung vào một bãi đất rộng để làm thủ tục khai báo lý lịch cho Cao Ủy Tị Nan Liên Hiệp Quốc, từng gia đình, từng cá nhân theo thứ tự, ghe đến trước làm trước, ghe đến sau làm sau, ghe gia đình bạn tôi mang số PB 714, con số này được sử dụng và ghi trên tất cả hồ sơ giấy tờ của người tị nạn. Sau đó gia đình bạn tôi được chỉ định chỗ ở, đi lãnh quần áo xã hội (đồ cũ)để bắt đầu cho cuộc sống mới trên đảo. Giới chức Mã Lai thấy bà ngoại của bạn tôi già cả nên sắp xếp cho ở khu A, gần Cao Ủy Tị Nan và văn phòng trại, để. tiện việc đi lại, không phải lên xuống dốc núi. Khu A là khu khang trang, sạch sẽ nhất đối với các khu khác ví nó gần văn phòng Cao Ủy Tị Nạn và văn phòng của lực lượng đặc nhiệm Mã Lai. Khu này dành riêng cho các thuyền nhân lớn tuổi và các gia đình đông người . Mỗi lần có ghe vượt biên cập bến, loa phóng thanh liên tục thông báo:” Có đồng bào mới đến đảo”. Dân trên đảo rầm rộ chạy tới văn phòng trại, xem coi trong số đồng báo mới đến đảo có ai là thân nhân bè bạn của mình không.

Những ngày tháng trôi qua ở trại tị nạn rất bình an, không ai phải lo lắng một điềi gì cả. Ăn, mặc , vệ sinh cá nhân, y tế, giáo dục, hướng nghiệp đều được Cao Ủy Tị Nạn quan tâm giúp đỡ, chăm sóc tận tình. Dân tị nạn cứ tà tà sống sung sướng ngày qua ngày chờ ngày định cư còn hơn là sống dưới ách thống tri của đảng CS vô thần

Rồi việc gì đến sẽ đến, mọi ngươi tị nạn vui mừng khi nghe loa phóng thanh thông báo:” Hôm nay có đồng bào rời đảo”. Buồn ơi là buồn, cũng vui quá là vui..Người vui sướng chuẩn bị lên đường định cư, miệng cười toe toét giơ tay vẫy chào kẻ ở lại, cũng có.kẻ đứng lặng yên sụt suì phút giây giã biệt, nước mắt rưng rưng. Trong khi đó,nhạc trổi lên bài:” Hẹn nhé”.do Ca sĩ Khánh Ly hát, được thu âm sẵn trong băng Cassete, loa phóng thanh phát lên khắp trại, tiếng hát Khánh Ly làm ảo não lòng người. Sau bản:” Hẹn nhé” là bài:” Biển Nhớ”..Ôái cha ơi, nó não lòng ray rứt làm sao, rầu chết đi được. Mấy cô gái cặp mắt đỏ hoe tiễn biệt người yêu có tên đi định cư, nghe toàn những lời hứa hẹn, yêu thương nhung nhớ. Có người đề nghị văn phòng trại nên mở thêm bài:” Đừng lừa dối nhau” cho đủ “bộ tam sên” trước sau 3 bài hát.

“Ngày đồng bào rời đảo” chiếc cầu dài Jetty gống như một sân khấu hí trường, đồng bào rời đảo là những diễn viên của vở bi hài kịch” Khóc cười nhân thế.”

Trên đảo Pulau Bidong ít khi thấy bóng dáng chim Hải Âu Cây cối rậm rạp trên ngọn đồi cao cũng vắng bóng khỉ, chồn hay những con thú rừng.Nhưng đặc biệt nhất lại có một loại đông vật sống mạnh, sinh sản nhanh nhà nào cũng nuôi chúng. Đó là những con chuột khổng lồ, mập ú, chạy khắp cùng nhà, chỗ nào cũng có bóng dáng của chúng. Đối với những người sợ chuột, thấy nó là muốn té sỉu. Đêm ngày chúng cũng chạy tới chạy lui, bất kể kẹt giường, só bếp, sàn nhà đâu đâu cũng có. Chuột ở đây rất dạn dĩ, không sợ người,chúng ăn gạo của Cao Ủy Tị Nạn nên con nào con nấy mập u,ù to gần bằng con mèo, thân hình nặng nề, di chuyển khá chậm chạp, nó có thể bị ai đó rượt bắt hoặc đập chết một cách dễ dàng. Trên đảo này chắc không có người ăn thịt chuột hoặc giêt chuột nên chúng nó chạy tung tăng, nhởn nhơ dường như coi thường cộng đồng dân Tị Nạn.

Vài ngày sau khi tới đảo bạn tôi được trại phân công làm việc để phục vụ cộng đồng như dọn dẹp vệ sinh cống rãnh, nhà cầu, nhặt rác…..Nhưng có 2 lần bạn tôi phải làm một công việc bất đắc dĩ nhớù đời  khiến bạn tôi luôn suy tư ray rứt trong tâm khảm:”chôn gạo”.

Mỗi khẩu phần ăn của người tị nạn đã được Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc qui định cung cấp bao nhiêu gạo trong một ngày. Thức ăn gồm có những gì, mọi thứ đều được can, đếm đúng theo hợp đồng giữa nhà cung cấp thực phẩm ký kết với Cao Ủy. Riêng phần gạo thì phát cho người Tị Nạn qua dư thừa, nhiều gia đình đông trẻ nhỏ, số gạo ăn không hết phải đem đi đổ. Bạn tôi không hiểu giải pháp “chôn gạo” do vị nào nghĩ ra. Nhiều ý kiến cho rằng nên thông báo cho nhà thầu giảm bớt số lượng gạo cung cấp, như vậy sẽ giảm bớt phần cơm nuôi chuột. Một số vị bình luận rằng nhiều năm qua đã như vậy thì cứ tiếp tục như thế đi vì tiền trợ giúp dân Tị Nan do thế giới đóng góp, ý kiến dư thừa làm gì cho mất công. Có mấy vị ”Tị Nan viên” khác thì nghi nhà thầu Hoa Kiều muốn giữ nguyên hiện trạng để kiếm chác, nếu giảm khẩu phần gạo, chủ thầu sẽ bội thất thu.

Bạn tôi sống trên đảo 3 tháng phải đau lòng chứng kiến cảnh chôn gạo 2 lần, như vậy tính ra tháng rưỡi l lần, bạn tôi đã tham gia vào công tác bất đắc dĩ này. Dưới sự giám sát của nhân viên ban xã hội làm việc cho Cao Ủy, còn lại 5 thuyền nhân được phân công xẻng cầm tay, đào hố sâu chôn gạo. Hai chục bao gạo trắng ngần được tưới dầu hôi và hóa chất khiến cho chuột không có đánh mùi, toàn bộ số gạo được quăng xuống hố rồi lấp đất lại, khoảng cách từ bao gạo đến mặt đất ít nhất là bốn tấc, càng sâu càng tốt hầu tránh việc chuột đào hang .Mọi người làm xong công tác bình thản cùng nhau trở về nhà tắm rửa nghỉ ngơi. Còn bạn tôi lại mang trong lòng một nỗi buồn man mácù.và không khỏi quan tâm suy nghĩ: giờ phút này trên quê hương tôi biết bao nhiêu người chịu cảnh lầm than đói khổ  vì không có gạo mà ăn, áo không có mà mặc. Nhớ lại lúc còn ở trong lao tù CS, tù nhân chúng tôi đói nhăn răng, ăn bo bo đến khoai mì, liên tụclâu lâu mới có một ngày cơm và chan với nước muối mà ăn mà chúng tôi gọi là “nước mắm Inox” Còn khoai mì củ được CS chế biến xay ra thành bột, nhồi lại cho dẻo, lấy lon sữa bò làm khuôn, ấn xuống để cắt ra từng khoanh tròn giống như chiếc bánh hình tròn, tù nhân cố gắêng dồn vô bao tử, ngày 3 buổi, ăn cầm hơi lấy no những chiếc bánh này để có sức lao động, có người ăn được không sao, có người ăn vô sinh biến chứng đau quặn bụng và phải đi tiêu chảy như bị Tào Tháo đuổi, không biết các trại tù khác như thế nào chứ trại tù Gia Rây Xuân Lộc chúng tôi đặt tên cho cái bánh khoai mì quái ác đó một cái tên để nhớ đờiù:” Bánh Xe Lãng Tử”â. Ngoài ra tù nhân chúng tôi mỗi lần đi lao động bên ngàai đều phải đi qua cái cổng và chứng kiến tận mắt 1 tấm bảng đề mấy hàng chữ:” Không có gì quý hơn độc lập tự do”, Chúng tôi thật quá ngao ngán làm sao và không quên đổi lại danh xưng cho đúng với thực tế hiện tại:” Không có gì quý hơn mì lác với Bo Bo”.

Sau đó gia đình bạn tôi được chuyển qua trại Sungai Besi hàng ngày số cơm nhà bếp cung cấp cho dân Tị Nạn cũng quá nhiều ăn không hết, bà con cũng phải đem cơm đi đổ, nhưng ở trại này nhà thầu có sáng kiến biết tiết kiệm hơn, họ đặt những thùng phuy nhựa khắp nơi để dân Tị Nạn đổ số cơm dư thừa vào đó dùng để nuôi heo cho đỡ phí phạm hơn.

Ở trại Sungai Besi chỉ một thời gian ngắn, nhưng nơi đó đã để lại cho gia đình bạn tôi một cái tang buồn Được biết bà ngoại bạn tôi vẫn luôn mạnh khỏe trên con tàu vượt biển 12 ngày đêm và khi ở đảo Bidon, sức khỏa bà vẫn tốt, ăn uống rất bình thường, nhưng khi chuyển tới trại Sungai Besi gần thử đô âKuala Lumpur, khí hậu ở đây rất nóng bức khác thường không giống ở đảo, không khí trong lành,, mát mẻ quanh năm. Bà ngoại bạn tôi bị sốt cao độ, trạm xá thiếu thuốc mem chữa trị. Hơn nữa nhằm ngày lễ lớn của nước Mã Lai, nhân viên trạm xá nghỉ lễ cả tuần, chỉ phát cho bà thuốc uống hạ nhiệt tạm thời. Hết lễ, nhân viên trạm xá mới vô làm việc trở lại khi thấy bà sốt quá cao, mê man bất tỉnh, họ cấp tốc đưa bà ra nhà thương lớn ở thành phố để chữa trị, nhưng đã quá trễ vì bà bị sưng phổi nặng hết phương cứu chữa và không may qua đời tại nhà thương. Cao Ủy Tị Nan lo thủ tục tang lễ theo nghi thức Phật Giáo, gia đình bạn tôi được phép rời trại ra thành phố Kuala Lampur của Mã Lai để chịu tang bà.. Sau khi hỏa thiêu, tro cốt của bà được phép mang qua Mỹ.

Âu cũng là mệnh số đã an bài, khiến bà không may bị bịnh nhằm ngay ngày nghỉ lễ lớn của Mã Lai trại không có bác sĩ cũng như thuốc men điều trị.. Gia đình bạn tôi quá bi thương ân hận vì không thực hiện được nguyện vọng tha thiết của bà ngoại mình. Bà chỉ mong sao được qua Mỹ sớm để gặp mặt con cháu, nhưng bất hạnh đã không qua khỏi mệnh số. Hơn nữa bạn tôi tự an ủi bản thân mình và dần dần cũng nguôi đi điều phiền muộn. Từng là cư sĩ tại gia và luôn có tâm lành và cũng luôn gắng công tìm hiểu thông suốt giáo lý thâm sâu của Phật pháp và nhận thấy theo biến thiên của Tạo hóa:” Con là vô thường, trước sau gì ai cũng phải ra đi, không ai có thể sống mãi trên thế gian này”.Đó là mệnh số con người không ai tránh khỏi.

 

BUIPHU/VBMN

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.