Hôm nay,  

Thảm Cảnh Vượt Biên: Tội Ac CS

26/11/201900:00:00(Xem: 4769)

(Viết theo lời kể của người bạn tù cải tao vượt biên)

Chưa có một dân tộc nào khi đất nước vãn hồi hòa bình thống nhất đất nước lại có nhiều người bỏ nước ra đi tìm tự do nhiều như dân tộc VN. Sự ra đi vĩ đại và mất mát đau hương nhất trên đường bộ nơi rừng sâu nước độc hoặc trên những con thuyền bé nhỏ lênh đênh trên bỉển cả giữa lòng đại dương  ngoài việc không may bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp tủi nhục hoặc bị gió to sống lớn khiến không may bị đắm thuyền làm mồi cho cá ăn hoặc vùi thây dưới đáy lòng biển cả, Sự chết chóc vô cùng to lớn và khủng khiếp này đã đánh đông lương tâm nhân loại.

Thật vậy thử hỏi còn gì đau buồn và thống khổ cho bằng không ai nỡ lòng cam tâm rời bỏ quê hương xứ sở yêu quý của mình đến một đất nước xa lạ khác hẳn hoàn toàn về ngôn ngữ, phong tục và tập quán để sống một cuộc đời lưu vong bất đắc dĩ. Hỏi tức là trả lời. Thử hỏi đất nước mình phải như thế nào mà người dân lại mất hết niềm tin và hy vọng nên họ đã quyết tâm tìm sự sống trong sự chết dể cứu vãn đời mình và tương lai con cái mình. Do đó đã phát sinh ra phong trào việt biên, vượt biển rầm rộ đến nỗi Ca sĩ Hùng Cường sau bao lần vượt biên mới thoát khỏi gông cùm CS đã không ngần ngại thổ lộ hết tâm tình của mình” nếu cột đèn mà biết đi, nó cũng không từ nan”. Sau đây trường hợp vượt biên của một bạn tù cải tạo trải qua 3 lần gian nan khổ cực mới may mắn đến được bến bờ tự do.

Anh là tù nhân cải tạo được may mắn  CS tha về sớm khoảng năm 1980, nhưng vì không chịu nối dưới ách thống trị tàn bạo, tập trung bỏ tù không bản án những Quân dân, cán chính VNCH của chế độ cụ dưới hính là :”Trại cải tạo”, bần cùng hóa nhân dân miền Nam VN với chính sách đổi tiền liên tục đánh tư sản mại bản, cảo tạo Công thương nghiệp,,ép buộc nhân dân đô thị đi “Vùng kinh tế mới” dưới hình thức đem con bỏ chợ để CS có thể cướp nhà cướp của của nhân dân miền Nam VN.Ngoài ra CS còn thi hành chính sách nhân biêt đối xử trả thù thâm độc với với những người làm việc cho chế độ cũ và gia đình họ như công dân hạng 2 của chế độ. Vì không chịu nổi dưới ách thống trị tàn bạo của CS nên anh đã không ngần ngại tìm cách thoát khỏi chế độ bằng con đường vượt biển để tự cứu đời mình và tương lai cho con cái mình.

Qua 3 lần vượt biên dở khóc dở cười và 2 lần anh đã may mắn chạy thoát khỏi sự đuổi bắt gắt gao và nguy hiểm của bọn CS trong đường tơ kẽ tóc, lần cuối cùng anh mới đến được bến bờ tự do như  ý nguyện.

Được biết lần vượt biên lần thứ nhất khoảng tháng 8 năm 1982 là thời gian tốt nhất cho những người có ý định vựơt biên vi biển yên lặng, không gió to sóng lớn, anh nằm trong một nhóm người đang thực hiện ý định vượt biên trong một đêm tối trời đến điểm hẹn tại núi Thị Vải (Bà Rịa) để tập trung chuyển ra ghe lớn đi ra biển, nhưng bị trễ 1 giờ đồng hồ nên đường dây đưa người vượt biên bị bể, đám Công An CS bủa vây truy bắt,gắt gao nên mọi người mọi mạnh ai nấy đều tìm đường trốn chạy. Anh bạn tù vừa chạy thục mạng vừa thầm nghĩ mình mới ở trại tù trở về, nếu không may lại bị VC bắt được, lại cộng thêm tội vượt biên nữa chắc sẽ bị chúng giam cầm, đầy ải khổ sở hơn trước rất nhiều.Vì trời tối đen như mực, anh chạy băng qua cánh đồng trống mênh mông khoảng 10 cây số,băng cả qua khu rừng lau rậm rạp, vừa chạy anh vừa niệm Phật Quán Thế Âm Bồ Tát hầu cứu anh thoát nạn vì anh là người ngoan đạo, hơn nữa quá mệt mỏi nên anh phải dừng lại, anh lấy tay quờ quạng về phía trước dường như cảm thấy có một gốc cây, anh bèn nàêm im lặng bên cạnh gốc cây đó đồng thời lại thấy lờ mờ phía trước có 2 đốm sáng anh đoán có lẽ là 2 con mắt của thú rừng, dường như là của heo rừng thì đúng hơn, ngoài ra anh còn thấy lờ mờ một người lính vác súng đi qua đi lại bên cạnh lô cốt anh đoán có lẽ là trạm gác của du kích địa phương nên anh sợ quá không dám đi nữa và anh đã nằm yên bất động sau gốc cây đó để được an toàn hơn. Vì quá mệt mỏi nên anh đã ngủ thiếp đi bên cạnh gốc cây lúc nào không biết cho tới sáng.mới thức tỉnh. Khi tỉnh dậy anh tưởng rằng mình đã trải qua một giấc mơ kỳ lạ gần như huyền thoại mà cho tới giờ phút này anh vẫn chưa lý giải hết được sự việc. Bởi vì anh quá ngạc nhiên khi không thấy một gốùc cây nào cũng như lô cốt trạm gác của du kích địa phương nào mà anh đã mường tượng trươc ùđây, Nhưng điểm đặc biệt làm anh hoảng hồn khiếp đảm nhất là anh quá may mắn đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc bởi vì nếu anh không quá sợ hãi đểõ dừng chân lại mà cứ tiếp tục đi về phía trước chỉ khoảng 2 bước chân nữa thôi thì anh đã lọt xuống hố bom sâu thăm thẳm (được gọi là cái đìa) còn gọi là hố “ Tử Thần” thì đúng hơn thì chắc anh khó bảo toàn được tính mạng, chết rục xương dưới cái hố oan nghiệt đó không ai biết tới. Bây giờ chỉ còn lai mình anh đơn độc đứng trơ vơ giữa một cánh đồng trống mênh mông không định hướng nên không biết được đường nào để trở về nhà. Sau một phút định tâm suy nghĩ, anh bèn quyết định đi từ hướng chân núi Thị Vải ra phía ngoài. Vi đường đất có lẫn cát nên anh đi chân không cũng không đến nỗi vất vả vì dép anh đã bị văng mất trong cuộc trốn chạy, anh đi chân không như vậy khoảng thêm 2 tiếng đồng hồ nữa mới ra tới đường cái để đón xe đò trở về nhà ở Saigon.

Anh lơ xe đò hỏi anh muốn đi về đâu, anh đã nhanh trí trả lời: cho tôi về Long Thành. Xuống xe anh liền đi tản bộ kiếm một quán ăn tại Long Thành để ăn sáng hầu phục hồi lại sức khỏe và còn kêu thêm một ly cà phê để thưởng thức cho tinh thần được ổn định tỉnh táo trở lai, ngoài ra việc phải làm chủ yếu đầu tiên là anh phải tìm mua cho được một đồi dép để đi lại bình thường cho được yên tâm hơn. Sau đó anh lai đi tản bộ ra đường cái đón xe đò lần 2 trở về Saigon. Khi xe chay tới gần trạm kiểm soát bến xe đò miền Đông khoảng 200 mét, anh liền xuống xe đi về hướng nhà dân, đi khoảng 100 mét anh nhận được tin Tram kiểm soát đã bắt giữ khoảng 30 người gồm đàn ông, dàn bà, trẻ em  chân không đi dép thì ra đám CA Cộng Sản ở trạm đã được bọn CA ở tỉnh Bà Rịa thông cáo cho họ biết trước tin có một nhóm người vượt biên đang trốn chạy, chân không mang dép tìm cách đón xe đò về Saigon nên chúng mới kiểm soát gắt gao và bắt giữ được một số lượng người lớn như vậy. Thật quá may mắn cho Anh, nếu anh không tiên liệu trước, có lẽ anh cũng cùng chung số phận như những người bị CS bắt được nói trên. Anh vội đi vòng qua hẳn trạm kiểm soát, anh mới dám đón xe đò để tiếp tục trở về Saigon như lần trước một cách xuông sẻ bình an vô sự, Anh luôn cám ơn Thượng Dế đã cứu sông đời anh vì anh là người ngoan đạo và cho tới giờ phút này anh cũng không lý giải được tại sao anh lại có thể lanh trí hầu thoát được mọi hiểm nguy trong gang tấc như vậy. Ở nhà được một thời gian ngắn, anh cảm thấy khó sống được dưới chế độ CS vô nhân tính nên vì an nguy của bản thân  vì tương lai của cuộc đời ,anh đã không ngần ngại, bất kể hiểm nguy lại quyết tâm tiếp tục vượt biên lần 2 hầu mong làm sao có thể thoát khỏi địa ngục trần gian của CS. Lần này Anh cũng phải trải qua một giai đoạn thật gian nan và khổ ải không kém lần vượt biên trước dù mất khá nhiều về tiền bạc nhưng anh vẫn không nản lòng. Với  quyết tâm và ý nguyện sẵn có, đến vượt biên lần thứ 3 cuối cùng, anh đã may mắn mới đến được bến bờ tự do khoảng năm 1983: đảo

PULAU BIDON, NHỮNG NGÀY THÁNG CỦA ƯƠC MƠ

Anh làmột thuyền nhân tỵ nạn trên tàu dầu Hà Lan trong số 324, thuyền nhân được sắp thành hàng dài chuẩn bị bước lên chiếc thuyền màu xanh dương được Cao Ủ Tỵ Nạn phái ra để đưa mọi người . vào đất liền. Những lời từ giã tỏ lòng biết ơn của mọi người vượt biên đối với thuyền trưởng và thủy thủ đoàn tầu dầu Hòa Lan thật vô cùng cảm động. Mọi người cùng nhau vẫy tay chào tiễn biệt con tàu lần cuối.cùng. Thuyền Trưởng dùng loa phóng thanh gởi lời chúc mọi người được bình an và được mọi may mắn trên đất tam dung. Thuyền chở mọi người bỏ neo đậu sát cây cầu dài bắt vào đất liền..

Bidon là mảnh đất tạm dung cho người tỵ nạn, cây cao bóng mát, với những lều trại san sát bên nhau, đoàn người tị nạn được tập trung vào một bãi đất rộng để làm thủ tục khai báo lý lịch cho Cao Ủy Tị Nan Liên Hiệp Quốc, từng gia đình, từng cá nhân theo thứ tự, ghe đến trước làm trước, ghe đến sau làm sau, ghe gia đình bạn tôi mang số PB 714, con số này được sử dụng và ghi trên tất cả hồ sơ giấy tờ của người tị nạn. Sau đó gia đình bạn tôi được chỉ định chỗ ở, đi lãnh quần áo xã hội (đồ cũ)để bắt đầu cho cuộc sống mới trên đảo. Giới chức Mã Lai thấy bà ngoại của bạn tôi già cả nên sắp xếp cho ở khu A, gần Cao Ủy Tị Nan và văn phòng trại, để. tiện việc đi lại, không phải lên xuống dốc núi. Khu A là khu khang trang, sạch sẽ nhất đối với các khu khác ví nó gần văn phòng Cao Ủy Tị Nạn và văn phòng của lực lượng đặc nhiệm Mã Lai. Khu này dành riêng cho các thuyền nhân lớn tuổi và các gia đình đông người . Mỗi lần có ghe vượt biên cập bến, loa phóng thanh liên tục thông báo:” Có đồng bào mới đến đảo”. Dân trên đảo rầm rộ chạy tới văn phòng trại, xem coi trong số đồng báo mới đến đảo có ai là thân nhân bè bạn của mình không.

Những ngày tháng trôi qua ở trại tị nạn rất bình an, không ai phải lo lắng một điềi gì cả. Ăn, mặc , vệ sinh cá nhân, y tế, giáo dục, hướng nghiệp đều được Cao Ủy Tị Nạn quan tâm giúp đỡ, chăm sóc tận tình. Dân tị nạn cứ tà tà sống sung sướng ngày qua ngày chờ ngày định cư còn hơn là sống dưới ách thống tri của đảng CS vô thần

Rồi việc gì đến sẽ đến, mọi ngươi tị nạn vui mừng khi nghe loa phóng thanh thông báo:” Hôm nay có đồng bào rời đảo”. Buồn ơi là buồn, cũng vui quá là vui..Người vui sướng chuẩn bị lên đường định cư, miệng cười toe toét giơ tay vẫy chào kẻ ở lại, cũng có.kẻ đứng lặng yên sụt suì phút giây giã biệt, nước mắt rưng rưng. Trong khi đó,nhạc trổi lên bài:” Hẹn nhé”.do Ca sĩ Khánh Ly hát, được thu âm sẵn trong băng Cassete, loa phóng thanh phát lên khắp trại, tiếng hát Khánh Ly làm ảo não lòng người. Sau bản:” Hẹn nhé” là bài:” Biển Nhớ”..Ôái cha ơi, nó não lòng ray rứt làm sao, rầu chết đi được. Mấy cô gái cặp mắt đỏ hoe tiễn biệt người yêu có tên đi định cư, nghe toàn những lời hứa hẹn, yêu thương nhung nhớ. Có người đề nghị văn phòng trại nên mở thêm bài:” Đừng lừa dối nhau” cho đủ “bộ tam sên” trước sau 3 bài hát.

“Ngày đồng bào rời đảo” chiếc cầu dài Jetty gống như một sân khấu hí trường, đồng bào rời đảo là những diễn viên của vở bi hài kịch” Khóc cười nhân thế.”

Trên đảo Pulau Bidong ít khi thấy bóng dáng chim Hải Âu Cây cối rậm rạp trên ngọn đồi cao cũng vắng bóng khỉ, chồn hay những con thú rừng.Nhưng đặc biệt nhất lại có một loại đông vật sống mạnh, sinh sản nhanh nhà nào cũng nuôi chúng. Đó là những con chuột khổng lồ, mập ú, chạy khắp cùng nhà, chỗ nào cũng có bóng dáng của chúng. Đối với những người sợ chuột, thấy nó là muốn té sỉu. Đêm ngày chúng cũng chạy tới chạy lui, bất kể kẹt giường, só bếp, sàn nhà đâu đâu cũng có. Chuột ở đây rất dạn dĩ, không sợ người,chúng ăn gạo của Cao Ủy Tị Nạn nên con nào con nấy mập u,ù to gần bằng con mèo, thân hình nặng nề, di chuyển khá chậm chạp, nó có thể bị ai đó rượt bắt hoặc đập chết một cách dễ dàng. Trên đảo này chắc không có người ăn thịt chuột hoặc giêt chuột nên chúng nó chạy tung tăng, nhởn nhơ dường như coi thường cộng đồng dân Tị Nạn.

Vài ngày sau khi tới đảo bạn tôi được trại phân công làm việc để phục vụ cộng đồng như dọn dẹp vệ sinh cống rãnh, nhà cầu, nhặt rác…..Nhưng có 2 lần bạn tôi phải làm một công việc bất đắc dĩ nhớù đời  khiến bạn tôi luôn suy tư ray rứt trong tâm khảm:”chôn gạo”.

Mỗi khẩu phần ăn của người tị nạn đã được Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc qui định cung cấp bao nhiêu gạo trong một ngày. Thức ăn gồm có những gì, mọi thứ đều được can, đếm đúng theo hợp đồng giữa nhà cung cấp thực phẩm ký kết với Cao Ủy. Riêng phần gạo thì phát cho người Tị Nạn qua dư thừa, nhiều gia đình đông trẻ nhỏ, số gạo ăn không hết phải đem đi đổ. Bạn tôi không hiểu giải pháp “chôn gạo” do vị nào nghĩ ra. Nhiều ý kiến cho rằng nên thông báo cho nhà thầu giảm bớt số lượng gạo cung cấp, như vậy sẽ giảm bớt phần cơm nuôi chuột. Một số vị bình luận rằng nhiều năm qua đã như vậy thì cứ tiếp tục như thế đi vì tiền trợ giúp dân Tị Nan do thế giới đóng góp, ý kiến dư thừa làm gì cho mất công. Có mấy vị ”Tị Nan viên” khác thì nghi nhà thầu Hoa Kiều muốn giữ nguyên hiện trạng để kiếm chác, nếu giảm khẩu phần gạo, chủ thầu sẽ bội thất thu.

Bạn tôi sống trên đảo 3 tháng phải đau lòng chứng kiến cảnh chôn gạo 2 lần, như vậy tính ra tháng rưỡi l lần, bạn tôi đã tham gia vào công tác bất đắc dĩ này. Dưới sự giám sát của nhân viên ban xã hội làm việc cho Cao Ủy, còn lại 5 thuyền nhân được phân công xẻng cầm tay, đào hố sâu chôn gạo. Hai chục bao gạo trắng ngần được tưới dầu hôi và hóa chất khiến cho chuột không có đánh mùi, toàn bộ số gạo được quăng xuống hố rồi lấp đất lại, khoảng cách từ bao gạo đến mặt đất ít nhất là bốn tấc, càng sâu càng tốt hầu tránh việc chuột đào hang .Mọi người làm xong công tác bình thản cùng nhau trở về nhà tắm rửa nghỉ ngơi. Còn bạn tôi lại mang trong lòng một nỗi buồn man mácù.và không khỏi quan tâm suy nghĩ: giờ phút này trên quê hương tôi biết bao nhiêu người chịu cảnh lầm than đói khổ  vì không có gạo mà ăn, áo không có mà mặc. Nhớ lại lúc còn ở trong lao tù CS, tù nhân chúng tôi đói nhăn răng, ăn bo bo đến khoai mì, liên tụclâu lâu mới có một ngày cơm và chan với nước muối mà ăn mà chúng tôi gọi là “nước mắm Inox” Còn khoai mì củ được CS chế biến xay ra thành bột, nhồi lại cho dẻo, lấy lon sữa bò làm khuôn, ấn xuống để cắt ra từng khoanh tròn giống như chiếc bánh hình tròn, tù nhân cố gắêng dồn vô bao tử, ngày 3 buổi, ăn cầm hơi lấy no những chiếc bánh này để có sức lao động, có người ăn được không sao, có người ăn vô sinh biến chứng đau quặn bụng và phải đi tiêu chảy như bị Tào Tháo đuổi, không biết các trại tù khác như thế nào chứ trại tù Gia Rây Xuân Lộc chúng tôi đặt tên cho cái bánh khoai mì quái ác đó một cái tên để nhớ đờiù:” Bánh Xe Lãng Tử”â. Ngoài ra tù nhân chúng tôi mỗi lần đi lao động bên ngàai đều phải đi qua cái cổng và chứng kiến tận mắt 1 tấm bảng đề mấy hàng chữ:” Không có gì quý hơn độc lập tự do”, Chúng tôi thật quá ngao ngán làm sao và không quên đổi lại danh xưng cho đúng với thực tế hiện tại:” Không có gì quý hơn mì lác với Bo Bo”.

Sau đó gia đình bạn tôi được chuyển qua trại Sungai Besi hàng ngày số cơm nhà bếp cung cấp cho dân Tị Nạn cũng quá nhiều ăn không hết, bà con cũng phải đem cơm đi đổ, nhưng ở trại này nhà thầu có sáng kiến biết tiết kiệm hơn, họ đặt những thùng phuy nhựa khắp nơi để dân Tị Nạn đổ số cơm dư thừa vào đó dùng để nuôi heo cho đỡ phí phạm hơn.

Ở trại Sungai Besi chỉ một thời gian ngắn, nhưng nơi đó đã để lại cho gia đình bạn tôi một cái tang buồn Được biết bà ngoại bạn tôi vẫn luôn mạnh khỏe trên con tàu vượt biển 12 ngày đêm và khi ở đảo Bidon, sức khỏa bà vẫn tốt, ăn uống rất bình thường, nhưng khi chuyển tới trại Sungai Besi gần thử đô âKuala Lumpur, khí hậu ở đây rất nóng bức khác thường không giống ở đảo, không khí trong lành,, mát mẻ quanh năm. Bà ngoại bạn tôi bị sốt cao độ, trạm xá thiếu thuốc mem chữa trị. Hơn nữa nhằm ngày lễ lớn của nước Mã Lai, nhân viên trạm xá nghỉ lễ cả tuần, chỉ phát cho bà thuốc uống hạ nhiệt tạm thời. Hết lễ, nhân viên trạm xá mới vô làm việc trở lại khi thấy bà sốt quá cao, mê man bất tỉnh, họ cấp tốc đưa bà ra nhà thương lớn ở thành phố để chữa trị, nhưng đã quá trễ vì bà bị sưng phổi nặng hết phương cứu chữa và không may qua đời tại nhà thương. Cao Ủy Tị Nan lo thủ tục tang lễ theo nghi thức Phật Giáo, gia đình bạn tôi được phép rời trại ra thành phố Kuala Lampur của Mã Lai để chịu tang bà.. Sau khi hỏa thiêu, tro cốt của bà được phép mang qua Mỹ.

Âu cũng là mệnh số đã an bài, khiến bà không may bị bịnh nhằm ngay ngày nghỉ lễ lớn của Mã Lai trại không có bác sĩ cũng như thuốc men điều trị.. Gia đình bạn tôi quá bi thương ân hận vì không thực hiện được nguyện vọng tha thiết của bà ngoại mình. Bà chỉ mong sao được qua Mỹ sớm để gặp mặt con cháu, nhưng bất hạnh đã không qua khỏi mệnh số. Hơn nữa bạn tôi tự an ủi bản thân mình và dần dần cũng nguôi đi điều phiền muộn. Từng là cư sĩ tại gia và luôn có tâm lành và cũng luôn gắng công tìm hiểu thông suốt giáo lý thâm sâu của Phật pháp và nhận thấy theo biến thiên của Tạo hóa:” Con là vô thường, trước sau gì ai cũng phải ra đi, không ai có thể sống mãi trên thế gian này”.Đó là mệnh số con người không ai tránh khỏi.

 

BUIPHU/VBMN

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.