Hôm nay,  

Thảm Cảnh Vượt Biên: Tội Ac CS

26/11/201900:00:00(Xem: 4770)

(Viết theo lời kể của người bạn tù cải tao vượt biên)

Chưa có một dân tộc nào khi đất nước vãn hồi hòa bình thống nhất đất nước lại có nhiều người bỏ nước ra đi tìm tự do nhiều như dân tộc VN. Sự ra đi vĩ đại và mất mát đau hương nhất trên đường bộ nơi rừng sâu nước độc hoặc trên những con thuyền bé nhỏ lênh đênh trên bỉển cả giữa lòng đại dương  ngoài việc không may bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp tủi nhục hoặc bị gió to sống lớn khiến không may bị đắm thuyền làm mồi cho cá ăn hoặc vùi thây dưới đáy lòng biển cả, Sự chết chóc vô cùng to lớn và khủng khiếp này đã đánh đông lương tâm nhân loại.

Thật vậy thử hỏi còn gì đau buồn và thống khổ cho bằng không ai nỡ lòng cam tâm rời bỏ quê hương xứ sở yêu quý của mình đến một đất nước xa lạ khác hẳn hoàn toàn về ngôn ngữ, phong tục và tập quán để sống một cuộc đời lưu vong bất đắc dĩ. Hỏi tức là trả lời. Thử hỏi đất nước mình phải như thế nào mà người dân lại mất hết niềm tin và hy vọng nên họ đã quyết tâm tìm sự sống trong sự chết dể cứu vãn đời mình và tương lai con cái mình. Do đó đã phát sinh ra phong trào việt biên, vượt biển rầm rộ đến nỗi Ca sĩ Hùng Cường sau bao lần vượt biên mới thoát khỏi gông cùm CS đã không ngần ngại thổ lộ hết tâm tình của mình” nếu cột đèn mà biết đi, nó cũng không từ nan”. Sau đây trường hợp vượt biên của một bạn tù cải tạo trải qua 3 lần gian nan khổ cực mới may mắn đến được bến bờ tự do.

Anh là tù nhân cải tạo được may mắn  CS tha về sớm khoảng năm 1980, nhưng vì không chịu nối dưới ách thống trị tàn bạo, tập trung bỏ tù không bản án những Quân dân, cán chính VNCH của chế độ cụ dưới hính là :”Trại cải tạo”, bần cùng hóa nhân dân miền Nam VN với chính sách đổi tiền liên tục đánh tư sản mại bản, cảo tạo Công thương nghiệp,,ép buộc nhân dân đô thị đi “Vùng kinh tế mới” dưới hình thức đem con bỏ chợ để CS có thể cướp nhà cướp của của nhân dân miền Nam VN.Ngoài ra CS còn thi hành chính sách nhân biêt đối xử trả thù thâm độc với với những người làm việc cho chế độ cũ và gia đình họ như công dân hạng 2 của chế độ. Vì không chịu nổi dưới ách thống trị tàn bạo của CS nên anh đã không ngần ngại tìm cách thoát khỏi chế độ bằng con đường vượt biển để tự cứu đời mình và tương lai cho con cái mình.

Qua 3 lần vượt biên dở khóc dở cười và 2 lần anh đã may mắn chạy thoát khỏi sự đuổi bắt gắt gao và nguy hiểm của bọn CS trong đường tơ kẽ tóc, lần cuối cùng anh mới đến được bến bờ tự do như  ý nguyện.

Được biết lần vượt biên lần thứ nhất khoảng tháng 8 năm 1982 là thời gian tốt nhất cho những người có ý định vựơt biên vi biển yên lặng, không gió to sóng lớn, anh nằm trong một nhóm người đang thực hiện ý định vượt biên trong một đêm tối trời đến điểm hẹn tại núi Thị Vải (Bà Rịa) để tập trung chuyển ra ghe lớn đi ra biển, nhưng bị trễ 1 giờ đồng hồ nên đường dây đưa người vượt biên bị bể, đám Công An CS bủa vây truy bắt,gắt gao nên mọi người mọi mạnh ai nấy đều tìm đường trốn chạy. Anh bạn tù vừa chạy thục mạng vừa thầm nghĩ mình mới ở trại tù trở về, nếu không may lại bị VC bắt được, lại cộng thêm tội vượt biên nữa chắc sẽ bị chúng giam cầm, đầy ải khổ sở hơn trước rất nhiều.Vì trời tối đen như mực, anh chạy băng qua cánh đồng trống mênh mông khoảng 10 cây số,băng cả qua khu rừng lau rậm rạp, vừa chạy anh vừa niệm Phật Quán Thế Âm Bồ Tát hầu cứu anh thoát nạn vì anh là người ngoan đạo, hơn nữa quá mệt mỏi nên anh phải dừng lại, anh lấy tay quờ quạng về phía trước dường như cảm thấy có một gốc cây, anh bèn nàêm im lặng bên cạnh gốc cây đó đồng thời lại thấy lờ mờ phía trước có 2 đốm sáng anh đoán có lẽ là 2 con mắt của thú rừng, dường như là của heo rừng thì đúng hơn, ngoài ra anh còn thấy lờ mờ một người lính vác súng đi qua đi lại bên cạnh lô cốt anh đoán có lẽ là trạm gác của du kích địa phương nên anh sợ quá không dám đi nữa và anh đã nằm yên bất động sau gốc cây đó để được an toàn hơn. Vì quá mệt mỏi nên anh đã ngủ thiếp đi bên cạnh gốc cây lúc nào không biết cho tới sáng.mới thức tỉnh. Khi tỉnh dậy anh tưởng rằng mình đã trải qua một giấc mơ kỳ lạ gần như huyền thoại mà cho tới giờ phút này anh vẫn chưa lý giải hết được sự việc. Bởi vì anh quá ngạc nhiên khi không thấy một gốùc cây nào cũng như lô cốt trạm gác của du kích địa phương nào mà anh đã mường tượng trươc ùđây, Nhưng điểm đặc biệt làm anh hoảng hồn khiếp đảm nhất là anh quá may mắn đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc bởi vì nếu anh không quá sợ hãi đểõ dừng chân lại mà cứ tiếp tục đi về phía trước chỉ khoảng 2 bước chân nữa thôi thì anh đã lọt xuống hố bom sâu thăm thẳm (được gọi là cái đìa) còn gọi là hố “ Tử Thần” thì đúng hơn thì chắc anh khó bảo toàn được tính mạng, chết rục xương dưới cái hố oan nghiệt đó không ai biết tới. Bây giờ chỉ còn lai mình anh đơn độc đứng trơ vơ giữa một cánh đồng trống mênh mông không định hướng nên không biết được đường nào để trở về nhà. Sau một phút định tâm suy nghĩ, anh bèn quyết định đi từ hướng chân núi Thị Vải ra phía ngoài. Vi đường đất có lẫn cát nên anh đi chân không cũng không đến nỗi vất vả vì dép anh đã bị văng mất trong cuộc trốn chạy, anh đi chân không như vậy khoảng thêm 2 tiếng đồng hồ nữa mới ra tới đường cái để đón xe đò trở về nhà ở Saigon.

Anh lơ xe đò hỏi anh muốn đi về đâu, anh đã nhanh trí trả lời: cho tôi về Long Thành. Xuống xe anh liền đi tản bộ kiếm một quán ăn tại Long Thành để ăn sáng hầu phục hồi lại sức khỏe và còn kêu thêm một ly cà phê để thưởng thức cho tinh thần được ổn định tỉnh táo trở lai, ngoài ra việc phải làm chủ yếu đầu tiên là anh phải tìm mua cho được một đồi dép để đi lại bình thường cho được yên tâm hơn. Sau đó anh lai đi tản bộ ra đường cái đón xe đò lần 2 trở về Saigon. Khi xe chay tới gần trạm kiểm soát bến xe đò miền Đông khoảng 200 mét, anh liền xuống xe đi về hướng nhà dân, đi khoảng 100 mét anh nhận được tin Tram kiểm soát đã bắt giữ khoảng 30 người gồm đàn ông, dàn bà, trẻ em  chân không đi dép thì ra đám CA Cộng Sản ở trạm đã được bọn CA ở tỉnh Bà Rịa thông cáo cho họ biết trước tin có một nhóm người vượt biên đang trốn chạy, chân không mang dép tìm cách đón xe đò về Saigon nên chúng mới kiểm soát gắt gao và bắt giữ được một số lượng người lớn như vậy. Thật quá may mắn cho Anh, nếu anh không tiên liệu trước, có lẽ anh cũng cùng chung số phận như những người bị CS bắt được nói trên. Anh vội đi vòng qua hẳn trạm kiểm soát, anh mới dám đón xe đò để tiếp tục trở về Saigon như lần trước một cách xuông sẻ bình an vô sự, Anh luôn cám ơn Thượng Dế đã cứu sông đời anh vì anh là người ngoan đạo và cho tới giờ phút này anh cũng không lý giải được tại sao anh lại có thể lanh trí hầu thoát được mọi hiểm nguy trong gang tấc như vậy. Ở nhà được một thời gian ngắn, anh cảm thấy khó sống được dưới chế độ CS vô nhân tính nên vì an nguy của bản thân  vì tương lai của cuộc đời ,anh đã không ngần ngại, bất kể hiểm nguy lại quyết tâm tiếp tục vượt biên lần 2 hầu mong làm sao có thể thoát khỏi địa ngục trần gian của CS. Lần này Anh cũng phải trải qua một giai đoạn thật gian nan và khổ ải không kém lần vượt biên trước dù mất khá nhiều về tiền bạc nhưng anh vẫn không nản lòng. Với  quyết tâm và ý nguyện sẵn có, đến vượt biên lần thứ 3 cuối cùng, anh đã may mắn mới đến được bến bờ tự do khoảng năm 1983: đảo

PULAU BIDON, NHỮNG NGÀY THÁNG CỦA ƯƠC MƠ

Anh làmột thuyền nhân tỵ nạn trên tàu dầu Hà Lan trong số 324, thuyền nhân được sắp thành hàng dài chuẩn bị bước lên chiếc thuyền màu xanh dương được Cao Ủ Tỵ Nạn phái ra để đưa mọi người . vào đất liền. Những lời từ giã tỏ lòng biết ơn của mọi người vượt biên đối với thuyền trưởng và thủy thủ đoàn tầu dầu Hòa Lan thật vô cùng cảm động. Mọi người cùng nhau vẫy tay chào tiễn biệt con tàu lần cuối.cùng. Thuyền Trưởng dùng loa phóng thanh gởi lời chúc mọi người được bình an và được mọi may mắn trên đất tam dung. Thuyền chở mọi người bỏ neo đậu sát cây cầu dài bắt vào đất liền..

Bidon là mảnh đất tạm dung cho người tỵ nạn, cây cao bóng mát, với những lều trại san sát bên nhau, đoàn người tị nạn được tập trung vào một bãi đất rộng để làm thủ tục khai báo lý lịch cho Cao Ủy Tị Nan Liên Hiệp Quốc, từng gia đình, từng cá nhân theo thứ tự, ghe đến trước làm trước, ghe đến sau làm sau, ghe gia đình bạn tôi mang số PB 714, con số này được sử dụng và ghi trên tất cả hồ sơ giấy tờ của người tị nạn. Sau đó gia đình bạn tôi được chỉ định chỗ ở, đi lãnh quần áo xã hội (đồ cũ)để bắt đầu cho cuộc sống mới trên đảo. Giới chức Mã Lai thấy bà ngoại của bạn tôi già cả nên sắp xếp cho ở khu A, gần Cao Ủy Tị Nan và văn phòng trại, để. tiện việc đi lại, không phải lên xuống dốc núi. Khu A là khu khang trang, sạch sẽ nhất đối với các khu khác ví nó gần văn phòng Cao Ủy Tị Nạn và văn phòng của lực lượng đặc nhiệm Mã Lai. Khu này dành riêng cho các thuyền nhân lớn tuổi và các gia đình đông người . Mỗi lần có ghe vượt biên cập bến, loa phóng thanh liên tục thông báo:” Có đồng bào mới đến đảo”. Dân trên đảo rầm rộ chạy tới văn phòng trại, xem coi trong số đồng báo mới đến đảo có ai là thân nhân bè bạn của mình không.

Những ngày tháng trôi qua ở trại tị nạn rất bình an, không ai phải lo lắng một điềi gì cả. Ăn, mặc , vệ sinh cá nhân, y tế, giáo dục, hướng nghiệp đều được Cao Ủy Tị Nạn quan tâm giúp đỡ, chăm sóc tận tình. Dân tị nạn cứ tà tà sống sung sướng ngày qua ngày chờ ngày định cư còn hơn là sống dưới ách thống tri của đảng CS vô thần

Rồi việc gì đến sẽ đến, mọi ngươi tị nạn vui mừng khi nghe loa phóng thanh thông báo:” Hôm nay có đồng bào rời đảo”. Buồn ơi là buồn, cũng vui quá là vui..Người vui sướng chuẩn bị lên đường định cư, miệng cười toe toét giơ tay vẫy chào kẻ ở lại, cũng có.kẻ đứng lặng yên sụt suì phút giây giã biệt, nước mắt rưng rưng. Trong khi đó,nhạc trổi lên bài:” Hẹn nhé”.do Ca sĩ Khánh Ly hát, được thu âm sẵn trong băng Cassete, loa phóng thanh phát lên khắp trại, tiếng hát Khánh Ly làm ảo não lòng người. Sau bản:” Hẹn nhé” là bài:” Biển Nhớ”..Ôái cha ơi, nó não lòng ray rứt làm sao, rầu chết đi được. Mấy cô gái cặp mắt đỏ hoe tiễn biệt người yêu có tên đi định cư, nghe toàn những lời hứa hẹn, yêu thương nhung nhớ. Có người đề nghị văn phòng trại nên mở thêm bài:” Đừng lừa dối nhau” cho đủ “bộ tam sên” trước sau 3 bài hát.

“Ngày đồng bào rời đảo” chiếc cầu dài Jetty gống như một sân khấu hí trường, đồng bào rời đảo là những diễn viên của vở bi hài kịch” Khóc cười nhân thế.”

Trên đảo Pulau Bidong ít khi thấy bóng dáng chim Hải Âu Cây cối rậm rạp trên ngọn đồi cao cũng vắng bóng khỉ, chồn hay những con thú rừng.Nhưng đặc biệt nhất lại có một loại đông vật sống mạnh, sinh sản nhanh nhà nào cũng nuôi chúng. Đó là những con chuột khổng lồ, mập ú, chạy khắp cùng nhà, chỗ nào cũng có bóng dáng của chúng. Đối với những người sợ chuột, thấy nó là muốn té sỉu. Đêm ngày chúng cũng chạy tới chạy lui, bất kể kẹt giường, só bếp, sàn nhà đâu đâu cũng có. Chuột ở đây rất dạn dĩ, không sợ người,chúng ăn gạo của Cao Ủy Tị Nạn nên con nào con nấy mập u,ù to gần bằng con mèo, thân hình nặng nề, di chuyển khá chậm chạp, nó có thể bị ai đó rượt bắt hoặc đập chết một cách dễ dàng. Trên đảo này chắc không có người ăn thịt chuột hoặc giêt chuột nên chúng nó chạy tung tăng, nhởn nhơ dường như coi thường cộng đồng dân Tị Nạn.

Vài ngày sau khi tới đảo bạn tôi được trại phân công làm việc để phục vụ cộng đồng như dọn dẹp vệ sinh cống rãnh, nhà cầu, nhặt rác…..Nhưng có 2 lần bạn tôi phải làm một công việc bất đắc dĩ nhớù đời  khiến bạn tôi luôn suy tư ray rứt trong tâm khảm:”chôn gạo”.

Mỗi khẩu phần ăn của người tị nạn đã được Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc qui định cung cấp bao nhiêu gạo trong một ngày. Thức ăn gồm có những gì, mọi thứ đều được can, đếm đúng theo hợp đồng giữa nhà cung cấp thực phẩm ký kết với Cao Ủy. Riêng phần gạo thì phát cho người Tị Nạn qua dư thừa, nhiều gia đình đông trẻ nhỏ, số gạo ăn không hết phải đem đi đổ. Bạn tôi không hiểu giải pháp “chôn gạo” do vị nào nghĩ ra. Nhiều ý kiến cho rằng nên thông báo cho nhà thầu giảm bớt số lượng gạo cung cấp, như vậy sẽ giảm bớt phần cơm nuôi chuột. Một số vị bình luận rằng nhiều năm qua đã như vậy thì cứ tiếp tục như thế đi vì tiền trợ giúp dân Tị Nan do thế giới đóng góp, ý kiến dư thừa làm gì cho mất công. Có mấy vị ”Tị Nan viên” khác thì nghi nhà thầu Hoa Kiều muốn giữ nguyên hiện trạng để kiếm chác, nếu giảm khẩu phần gạo, chủ thầu sẽ bội thất thu.

Bạn tôi sống trên đảo 3 tháng phải đau lòng chứng kiến cảnh chôn gạo 2 lần, như vậy tính ra tháng rưỡi l lần, bạn tôi đã tham gia vào công tác bất đắc dĩ này. Dưới sự giám sát của nhân viên ban xã hội làm việc cho Cao Ủy, còn lại 5 thuyền nhân được phân công xẻng cầm tay, đào hố sâu chôn gạo. Hai chục bao gạo trắng ngần được tưới dầu hôi và hóa chất khiến cho chuột không có đánh mùi, toàn bộ số gạo được quăng xuống hố rồi lấp đất lại, khoảng cách từ bao gạo đến mặt đất ít nhất là bốn tấc, càng sâu càng tốt hầu tránh việc chuột đào hang .Mọi người làm xong công tác bình thản cùng nhau trở về nhà tắm rửa nghỉ ngơi. Còn bạn tôi lại mang trong lòng một nỗi buồn man mácù.và không khỏi quan tâm suy nghĩ: giờ phút này trên quê hương tôi biết bao nhiêu người chịu cảnh lầm than đói khổ  vì không có gạo mà ăn, áo không có mà mặc. Nhớ lại lúc còn ở trong lao tù CS, tù nhân chúng tôi đói nhăn răng, ăn bo bo đến khoai mì, liên tụclâu lâu mới có một ngày cơm và chan với nước muối mà ăn mà chúng tôi gọi là “nước mắm Inox” Còn khoai mì củ được CS chế biến xay ra thành bột, nhồi lại cho dẻo, lấy lon sữa bò làm khuôn, ấn xuống để cắt ra từng khoanh tròn giống như chiếc bánh hình tròn, tù nhân cố gắêng dồn vô bao tử, ngày 3 buổi, ăn cầm hơi lấy no những chiếc bánh này để có sức lao động, có người ăn được không sao, có người ăn vô sinh biến chứng đau quặn bụng và phải đi tiêu chảy như bị Tào Tháo đuổi, không biết các trại tù khác như thế nào chứ trại tù Gia Rây Xuân Lộc chúng tôi đặt tên cho cái bánh khoai mì quái ác đó một cái tên để nhớ đờiù:” Bánh Xe Lãng Tử”â. Ngoài ra tù nhân chúng tôi mỗi lần đi lao động bên ngàai đều phải đi qua cái cổng và chứng kiến tận mắt 1 tấm bảng đề mấy hàng chữ:” Không có gì quý hơn độc lập tự do”, Chúng tôi thật quá ngao ngán làm sao và không quên đổi lại danh xưng cho đúng với thực tế hiện tại:” Không có gì quý hơn mì lác với Bo Bo”.

Sau đó gia đình bạn tôi được chuyển qua trại Sungai Besi hàng ngày số cơm nhà bếp cung cấp cho dân Tị Nạn cũng quá nhiều ăn không hết, bà con cũng phải đem cơm đi đổ, nhưng ở trại này nhà thầu có sáng kiến biết tiết kiệm hơn, họ đặt những thùng phuy nhựa khắp nơi để dân Tị Nạn đổ số cơm dư thừa vào đó dùng để nuôi heo cho đỡ phí phạm hơn.

Ở trại Sungai Besi chỉ một thời gian ngắn, nhưng nơi đó đã để lại cho gia đình bạn tôi một cái tang buồn Được biết bà ngoại bạn tôi vẫn luôn mạnh khỏe trên con tàu vượt biển 12 ngày đêm và khi ở đảo Bidon, sức khỏa bà vẫn tốt, ăn uống rất bình thường, nhưng khi chuyển tới trại Sungai Besi gần thử đô âKuala Lumpur, khí hậu ở đây rất nóng bức khác thường không giống ở đảo, không khí trong lành,, mát mẻ quanh năm. Bà ngoại bạn tôi bị sốt cao độ, trạm xá thiếu thuốc mem chữa trị. Hơn nữa nhằm ngày lễ lớn của nước Mã Lai, nhân viên trạm xá nghỉ lễ cả tuần, chỉ phát cho bà thuốc uống hạ nhiệt tạm thời. Hết lễ, nhân viên trạm xá mới vô làm việc trở lại khi thấy bà sốt quá cao, mê man bất tỉnh, họ cấp tốc đưa bà ra nhà thương lớn ở thành phố để chữa trị, nhưng đã quá trễ vì bà bị sưng phổi nặng hết phương cứu chữa và không may qua đời tại nhà thương. Cao Ủy Tị Nan lo thủ tục tang lễ theo nghi thức Phật Giáo, gia đình bạn tôi được phép rời trại ra thành phố Kuala Lampur của Mã Lai để chịu tang bà.. Sau khi hỏa thiêu, tro cốt của bà được phép mang qua Mỹ.

Âu cũng là mệnh số đã an bài, khiến bà không may bị bịnh nhằm ngay ngày nghỉ lễ lớn của Mã Lai trại không có bác sĩ cũng như thuốc men điều trị.. Gia đình bạn tôi quá bi thương ân hận vì không thực hiện được nguyện vọng tha thiết của bà ngoại mình. Bà chỉ mong sao được qua Mỹ sớm để gặp mặt con cháu, nhưng bất hạnh đã không qua khỏi mệnh số. Hơn nữa bạn tôi tự an ủi bản thân mình và dần dần cũng nguôi đi điều phiền muộn. Từng là cư sĩ tại gia và luôn có tâm lành và cũng luôn gắng công tìm hiểu thông suốt giáo lý thâm sâu của Phật pháp và nhận thấy theo biến thiên của Tạo hóa:” Con là vô thường, trước sau gì ai cũng phải ra đi, không ai có thể sống mãi trên thế gian này”.Đó là mệnh số con người không ai tránh khỏi.

 

BUIPHU/VBMN

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.