Hôm nay,  

Trí Tuệ Nhân Tạo (AI): Đũa Thần của Kỹ Nghệ Chẩn Đoán Hình Ảnh Y Tế

11/11/202200:00:00(Xem: 4053)

 

imaging 2
Ngày nay, ngành chẩn đoán hình ảnh y tế đang phát triển mạnh mẽ với sự hỗ trợ từ trí tuệ nhân tạo AI, tạo vai trò không thể thiếu trong lãnh vực điều trị, đặc biệt là điều trị ung thư.

 

HOA KỲ – Việc các bác sĩ có thể nhìn xuyên thấu bên trong cơ thể bệnh nhân mà không cần phải rạch một đường nào từng là một khái niệm thần kỳ. Cho đến nay, hình ảnh y tế (medical imaging) trong khoa quang tuyến đã trải qua một chặng đường dài, và các kỹ thuật mới nhất dựa vào trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ còn tiến xa hơn nữa: chúng khai thác khả năng tính toán khổng lồ của AI và khả năng học hỏi vô giới hạn để tận dụng triệt để các phương pháp dò chụp trên cơ thể, tìm ra những điều khác thường mà mắt người có thể bỏ sót.

Ngày nay, chẩn đoán hình ảnh liên quan đến những cách phân tích phức tạp mỗi một điểm dữ liệu để tìm ra bệnh tật và phân biệt đâu là dấu hiệu, đâu chỉ là tín hiệu nhiễu. Nếu những thập niên đầu tiên của X-quang dành riêng để tinh chỉnh độ phân giải của các phim chụp, thì những thập niên tiếp theo sẽ là để giải thích cặn kẽ những dữ liệu đó, bảo đảm không bỏ sót bất cứ điều gì.

Chẩn đoán hình ảnh cũng đang chuyển hướng từ trọng tâm ban đầu – chẩn đoán tình trạng y tế – sang một vai trò không thể thiếu trong điều trị, đặc biệt là trong lĩnh vực điều trị ung thư. Các bác sĩ đang bắt đầu dựa vào chẩn đoán hình ảnh để giúp theo dõi các khối u và sự lây lan của các tế bào ung thư chính xác hơn, nhanh chóng hơn để biết liệu các liệu pháp điều trị có hiệu quả hay không. Vai trò mới của chẩn đoán hình ảnh sẽ thay đổi các loại phương pháp điều trị và cải thiện thông tin về hiệu quả điều trị một cách đáng kể giúp bác sĩ nắm rõ tiến trình hiệu quả, để có thể đưa ra lựa chọn điều trị tốt hơn cho bệnh nhân.

Bác sĩ Basak Dogan, phó giáo sư khoa chẩn đoán hình ảnh y khoa tại University of Texas Southwestern Medical Center cho biết: “Trong 5 năm tới, chức năng của ngành chẩn đoán hình ảnh y khoa sẽ trở thành một phần thiết yếu trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Chẩn đoán hình ảnh hiện tại chưa trả lời được các câu hỏi thực tế về lâm sàng. Nhưng các kỹ thuật mới sẽ mang câu trả lời cho những bệnh nhân cần có độ chính xác cao hơn trong quá trình chăm sóc y tế, để họ có thể tìm được quyết định sáng suốt hơn.”

Phát hiện vấn đề sớm hơn

Cuộc đua đầu tiên trong việc tận dụng tối đa những gì hình ảnh y tế có thể cung cấp – bất kể đó là phim chụp X-quang, chụp cắt lớp vi tính (CT), ảnh cộng hưởng từ (MRI) hay siêu âm – là tự động hóa việc đọc chúng càng nhiều càng tốt. Bởi vì điều này giúp tiết kiệm thời gian quý báu của các bác sĩ quang tuyến. Các lập trình toán học có sự hỗ trợ của máy tính đã chứng minh giá trị của chúng trong lĩnh vực này, sức mạnh tính toán khổng lồ đã giúp máy tính có thể phân biệt được những phát hiện nào là bất thường giữa những điều bình thường. Các chuyên gia phần mềm và các bác sĩ quang tuyến đã hợp tác trong nhiều năm để đưa ra các công thức này. Các bác sĩ quang tuyến cung cấp cho chương trình máy tính những phát hiện của họ về hàng chục ngàn hình ảnh bình thường và bất thường, giúp cho máy tính phân biệt khi nào thì một hình ảnh có chứa những phần tử nằm ngoài các thông số bình thường. Càng có nhiều hình ảnh để so sánh, học hỏi và lưu trữ, máy tính càng nhạy hơn và tìm ra những điểm bất thường tốt hơn.

Để được Cơ Quan FDA phê duyệt, lập trình toán học liên quan đến hình ảnh phải có độ chính xác từ 80% đến 90%. Cho đến nay, FDA đã phê duyệt khoảng 420 lập trình toán học để sử dụng cho các căn bệnh khác nhau (chủ yếu là ung thư). FDA vẫn yêu cầu phải có con người giám sát và đưa ra quyết định cuối cùng đối với những gì lập trình toán học từ máy móc phát hiện ra, nhưng những kỹ thuật tân kỳ này cũng rất quan trọng giúp gắn cờ báo động các hình ảnh có thể chứa những điểm đáng ngờ, để các bác sĩ xem xét và nhanh chóng có câu trả lời cho bệnh nhân.

Tại Mass General Brigham, các bác sĩ sử dụng khoảng 50 lập trình toán như vậy để giúp chăm sóc bệnh nhân, từ phát hiện chứng phình động mạch và ung thư đến phát hiện tắc nghẽn mạch máu và các dấu hiệu đột quỵ. Nhiều bệnh nhân sẽ có các triệu chứng chung của bệnh. Khoảng một nửa số lập trình toán học này đã được FDA chấp thuận và số còn lại đang được thử nghiệm trong quá trình chăm sóc bệnh nhân.

Bác sĩ Keith Dreyer, giám đốc phòng khoa học dữ liệu và phó chủ tịch khoa quang tuyến tại Mass General Brigham, cho biết: “Mục tiêu là sớm phát hiện vấn đề. Trong một số trường hợp, con người có thể mất nhiều ngày để đưa ra chẩn đoán chính xác, trong khi máy tính có thể chạy liên tục mà không cần nghỉ để tìm ra bệnh nhân nào cần được điều trị ngay lập tức. Nếu có thể sử dụng máy tính trong việc đó, thì bệnh nhân sẽ được điều trị nhanh hơn nhiều.”

Theo dõi bệnh nhân kỹ lưỡng hơn

Sàng lọc có sự hỗ trợ của máy tính là bước đầu tiên để mang sự hỗ trợ của kỹ thuật trí khôn nhân tạo AI vào y học, và sự học hỏi không giới hạn của máy tính cũng đang rất hữu ích để giúp theo dõi bệnh nhân và theo sát những chuyển biến bệnh tình, dù là nhỏ nhất. Điều này đặc biệt quan trọng đối với bệnh ung thư, xác định xem khối u đang phát triển, nhỏ lại hay giữ nguyên kích thước là việc cần thiết để đánh giá mức độ hiệu quả của các phương pháp điều trị. Dogan nói: “Khó mà nắm rõ được điều gì đang xảy ra với khối u khi bệnh nhân trải qua quá trình hóa trị. Rất tiếc, các kỹ thuật hình ảnh thông thường không thể phát hiện ra bất kỳ thay đổi nào cho đến giữa quá trình hóa trị” – vốn có thể kéo dài hàng tháng trời – “khi bắt đầu xảy ra một số loại co rút.”
Imaging
Cuộc đua đầu tiên trong việc tận dụng tối đa những gì hình ảnh y tế có thể cung cấp – bất kể đó là phim chụp X-quang, chụp cắt lớp vi tính (CT), ảnh cộng hưởng từ (MRI) hay siêu âm – là tự động hóa việc đọc chúng càng nhiều càng tốt.
 
Chẩn đoán hình ảnh có thể hữu ích trong những trường hợp đó, giúp xác định những thay đổi không liên quan đến kích thước hoặc giải phẫu của khối u. Dogan nói: “Trong giai đoạn đầu của quá trình hóa trị, hầu hết những thay đổi trong khối u không hoàn toàn ở mức độ có bao nhiêu tế bào chết đi, mà liên quan đến việc điều chỉnh các tương tác giữa tế bào miễn dịch của cơ thể và tế bào ung thư.” Có nhiều trường hợp, khối u không thu nhỏ từ ngoài vào trong. Thay vào đó, một số túi tế bào ung thư bên trong khối u có thể chết đi, trong khi những túi khác vẫn tiếp tục phát triển, khiến cho tổng thể khối u có nhiều vết rỗ hơn, giống như cái áo len bị côn trùng cắn lủng lỗ. Thực tế, một số tế bào chết đi có thể gây ra tình trạng viêm, nên trong một số trường hợp, kích thước của khối u thậm chí có thể to ra dù điều này không nhất thiết có nghĩa là tế bào ung thư đã sinh sôi nhiều hơn. Chẩn đoán hình ảnh thông thường hiện nay sẽ không thể phân biệt được khối u đã chết mấy phần và còn sống mấy phần. Các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh phổ biến nhất trong ung thư vú, chụp nhũ ảnh và siêu âm, được thiết kế để xác định các đặc điểm giải phẫu.

Tại UT Southwestern, Bác sĩ Dogan đang thử nghiệm hai cách sử dụng chẩn đoán hình ảnh để theo dõi những thay đổi chức năng ở các bệnh nhân ung thư vú. Cách đầu tiên, với nguồn tài trợ từ Viện Y Tế Quốc Gia, Dogan sẽ thực hiện chẩn đoán hình ảnh các bệnh nhân ung thư vú sau một chu kỳ hóa trị để tìm ra những thay đổi nhỏ về áp suất xung quanh khối u, bằng cách bơm các bong bóng khí nhỏ vào. Siêu âm sẽ đo đạc sự thay đổi áp suất của các bong bóng này, chúng có xu hướng tích tụ xung quanh các khối u; các khối u đang phát triển sẽ có nhiều mạch máu hơn so với các mô khác, nhằm hỗ trợ cho chúng mở rộng.

Cách còn lại là thử nghiệm hình ảnh quang âm, biến ánh sáng thành tín hiệu âm thanh. Người ta sẽ chiếu tia laser vào mô vú, làm cho các tế bào dao động, tạo ra sóng âm thanh; sau đó họ thu lại các sóng âm thanh này và phân tích chúng. Kỹ thuật này giúp phát hiện nồng độ oxy của khối u, vì tế bào ung thư có xu hướng cần nhiều oxy hơn tế bào bình thường để có thể tiếp tục phát triển. Các thay đổi sóng âm thanh sẽ chỉ ra phần nào của khối u vẫn đang phát triển và phần nào không. Dogan nói: “Chỉ bằng cách chụp ảnh khối u, chúng tôi có thể biết được khối nào có nhiều khả năng di căn đến các hạch bạch huyết và khối nào thì không.” Hiện nay, các bác sĩ lâm sàng không thể biết loại ung thư nào sẽ di căn đến bạch huyết và loại nào sẽ không di căn. Dogan giải thích thêm: “Kỹ thuật này có thể cung cấp thông tin về cách khối u sẽ hoạt động và có khả năng tránh cho bệnh nhân phải làm phẫu thuật hạch bạch huyết không cần thiết.”

Kỹ thuật này cũng có thể giúp tìm ra các dấu hiệu ban đầu của các tế bào ung thư đã di căn đến các bộ phận khác của cơ thể, trước cả khi chúng xuất hiện trong các hình ảnh y tế và không cần phải cắt xén làm sinh thiết. Tập trung vào các cơ quan mà tế bào ung thư thường di căn, chẳng hạn như xương, gan và phổi, các bác sĩ có thể ‘đón đầu’ các tế bào ung thư mới ‘chuyển nhà’ này.

Phát hiện những bất thường không thể nhìn thấy bằng mắt thường

Theo Dreyer, nếu có đầy đủ dữ liệu và hình ảnh, các lập trình toán học này thậm chí có thể tìm ra những sai sót đối với bất kỳ tình trạng nào mà con người không thể phát hiện được. Nhóm của ông cũng đang nghiên cứu phát triển một lập trình toán học đo lường các dấu ấn sinh học nhất định trong cơ thể người, cho dù là về giải phẫu hay chức năng. Nhờ đó nó có thể gắn cờ báo động những thay đổi trong các chỉ số đó, có thể chỉ ra một người có khả năng bị đột quỵ, gãy xương, đau tim hoặc một số bệnh khác. Đó là đũa thần của chẩn đoán hình ảnh, và trong khi chỉ còn vài năm nữa, Dreyer cho biết “đó là những thứ sẽ khiến lĩnh vực chăm sóc sức khỏe chuyển mình, với sự hỗ trợ của AI.”

Để mở ra cánh cửa đó, sẽ cần tới hàng tấn dữ liệu từ hàng trăm ngàn bệnh nhân. Nhưng hệ thống chăm sóc sức khỏe không liên kết của Hoa Kỳ sẽ khiến cho việc tổng hợp các thông tin là một thách thức. Có một giải pháp là sử dụng kỹ thuật học hỏi liên kết (federated learning *), các nhà khoa học gia sẽ phát triển các lập trình toán học áp dụng cho cơ sở dữ liệu thông tin bệnh nhân ẩn danh của các tổ chức khác nhau. Bằng cách đó, quyền riêng tư vẫn được bảo vệ, các tổ chức sẽ không phải mang an ninh hệ thống của mình ra đánh đổi.

* Federated learning: Học hỏi liên kết là một kỹ thuật máy học đào tạo một lập trình toán học trên nhiều thiết bị và tập trung giữ các mẫu dữ liệu cục bộ mà không cần trao đổi chúng.

Nếu có thêm nhiều mô hình kiểu này được chấp thuận, thông qua kỹ thuật học tập liên kết hoặc cách khác, chẩn đoán hình ảnh với sự hỗ trợ của AI thậm chí có thể cho phép bệnh nhân điều trị tại nhà. Ví dụ, khi việc tự xét nghiệm COVID-19 và chăm sóc sức khỏe từ xa trở nên phổ biến hơn, mọi người có thể nhận được thông tin chẩn đoán hình ảnh y tế thông qua các phương pháp chụp, quét, siêu âm di động, được cung cấp thông qua một ứng dụng trên điện thoại thông minh.

Dreyer nói: “Sự thay đổi thực sự trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sẽ xảy ra nhờ có kỹ thuật trí khôn nhân tạo AI, đem lại rất nhiều giải pháp cho bệnh nhân hoặc thậm chí trước khi họ trở thành bệnh nhân, để mọi người có thể sống khỏe mạnh.” Có lẽ đó sẽ là cách hiệu quả nhất để tối ưu hóa kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh y tế: trao quyền cho bệnh nhân được hiểu rõ và đưa ra quyết định sáng suốt nhất có thể để bảo vệ sức khỏe của họ.
 
Phỏng dịch theo bài viết “How AI Is Changing Medical Imaging to Improve Patient Care” của Alice Park và Video của Andrew D. Johnson, được đăng trên trang Time.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thuốc diệt siêu vi (Antiviral drugs) thường được coi là một phát minh của thế kỷ 20. Nhưng một nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra một điều bất ngờ trong hệ thống miễn dịch của chúng ta: Nó có thể tự mình tổng hợp các phân tử diệt siêu vi (antiviral) để phản ứng chống lại sự lây nhiễm của vi rút. Nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu về một loại protein tạo ra các phân tử diệt siêu vi tự nhiên. Khác xa với phát minh hiện đại của nhân loại, tự nhiên đã tiến hóa các tế bào tiến hóa để tạo ra “loại thuốc” của riêng chúng – biện pháp phòng vệ xa xưa nhất để chống lại virus.
Trí tuệ nhân tạo / AI (Artificial Intelligence) gần đây được nhắc đến rất nhiều không những trong giới công nghệ máy tính mà cả trong các môi trường chính trị, kinh tế, xã hội vì tác dụng tiềm năng của nó trên mọi lãnh vực của đời sống con người. Riêng trong lãnh vực y học, AI đã và đang có những bước tiến đáng kể. AI đang được sử dụng để cải thiện kết quả của bệnh nhân, giảm chi phí và tăng hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe, có khả năng cách mạng hóa y học bằng cách cung cấp các chẩn đoán chính xác hơn, kế hoạch điều trị cá nhân hóa và cải thiện việc chăm sóc bệnh nhân.
Cũng giống như một cuốn từ điển vật lý, ‘cuốn từ điển’ trong đầu của chúng ta cũng chứa thông tin về các từ, bao gồm các chữ cái, âm thanh và ý nghĩa hoặc ngữ nghĩa của từ, cũng như thông tin về các thành phần câu cú và cách ghép các từ lại với nhau để tạo thành các câu đúng ngữ pháp. ‘Cuốn từ điển’ đó còn là một cuốn từ điển các từ ngữ đồng nghĩa. Nó có thể giúp chúng ta kết nối các từ ngữ và xem chúng giống nhau về ý nghĩa, âm thanh hoặc chính tả như thế nào.
Vừa mới mua một thùng raspberry hôm qua, mà hôm nay chúng bắt đầu trông hơi…mốc lên rồi. Mà mang bỏ hết thì tiếc đứt ruột – hay là chỉ lấy những trái bị mốc bỏ ra là được? Không ít người sẽ quyết định như vậy. Tưởng chừng như vô hại, nhưng nấm mốc trên thực phẩm có thể gây ra nhiều vấn đề, từ chứng khó tiêu cho đến những tình huống nghiêm trọng nhất như tổn thương thận hoặc thậm chí là ung thư.
Các cơ quan y tế Trung Quốc tuần qua cho biết họ chưa phát hiện bất kỳ mầm bệnh bất thường hoặc chủng vi-rút mới nào sau khi Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) yêu cầu cung cấp thông tin về các đợt bùng phát bịnh hô hấp. WHO đã yêu cầu Trung Quốc cung cấp thêm thông tin chi tiết sau khi các tổ chức như Program for Monitoring Emerging Diseases (ProMED) báo cáo về các trường hợp viêm phổi chưa được chẩn đoán ở trẻ em ở miền bắc Trung Quốc.
Nghệ (turmeric) là một loài thực vật có hoa thuộc họ gừng. Từ lâu, nghệ đã được đánh giá cao trong nền y khoa cổ Ayurvedic ở Ấn Độ nhờ đặc tính chống viêm. Với ẩm thực Châu Á, nghệ cũng được ưa thích bởi hương vị và màu sắc của nó. Trong tiếng Hindi, nghệ được gọi là Haldi, có nguồn gốc từ tiếng Phạn có nghĩa là “màu vàng.” Nhưng đối với hàng triệu người Nam Á thường xuyên sử dụng nghệ, màu vàng rực rỡ của nghệ có thể khiến họ mất mạng.
Thời gian Mở Ghi Danh Medicare (Open Enrollment) đang diễn ra. Chúng tôi đã chọn một số câu hỏi về chủ đề này và muốn chia sẻ thông tin trong chuyên mục của tháng này. Chúng tôi đã thêm một câu hỏi để giải quyết rõ ràng hơn những lĩnh vực mà nhiều người còn nhầm lẫn về vắc xin ngừa COVID-19. Nếu quý vị có thêm câu hỏi về Medicare, Medicaid, thị trường bảo hiểm Y tế theo đạo luật chăm sóc giá cả phải chăng, phúc lợi hưu trí an sinh xã hội, thu nhập an sinh bổ sung hoặc tiêm chủng ngừa COVID/cúm, quý vị có thể liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay bằng 3 cách:
Mua thuốc bậy bạ không nguồn gốc là một trò xui rủi. Từ Xanax đến cocaine, thuốc hoặc thuốc giả được mua ở những nơi không phải cơ sở y tế có thể chứa liều lượng fentanyl nguy hiểm cho tính mạng. Các bác sĩ đã chứng kiến sự gia tăng sử dụng fentanyl không cố ý từ những người mua các loại thuốc theo toa thuộc nhóm opioid và các loại thuốc khác có chứa hoặc pha, trộn fentanyl. Người ta nhận thấy Fentanyl đã được đưa vào nguồn cung cấp thuốc heroin ở Massachusetts. Vào năm 2016, Giáo sư Kavita Babu và các đồng nghiệp phát hiện ra rằng những bệnh nhân đến khoa cấp cứu với báo cáo sử dụng quá liều heroin thường có fentanyl trong kết quả xét nghiệm mẫu thuốc của họ.
Hàng năm, trên khắp thế giới sẽ có hàng triệu người quyết tâm không động tới các loại đồ uống có cồn trong một tháng – truyền thống này bắt đầu từ Tháng Giêng Khô Ráo (Dry January) và sau này mở rộng thành nhiều nỗ lực tương tự, chẳng hạn như Tháng Mười Tỉnh Táo (Sober October). Cho dù đó là cả một chiến dịch đông đảo người tham gia, hay chỉ đơn giản là nỗ lực của một cá nhân để bớt ‘say xỉn’ lại, số lượng người tham gia ‘tháng kiêng rượu’ có vẻ như ngày càng nhiều.
Thường thì ai cũng sẽ nghĩ rằng tế bào sống tốt hơn tế bào chết. Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng đúng: các tế bào thường hy sinh bản thân để giữ cho chúng ta khỏe mạnh. Chúng là những ‘anh hùng thầm lặng’ chẳng màng sinh-tử để bảo vệ chúng ta. Mặc dù cái chết có vẻ thụ động – là một kết thúc đáng tiếc xảy ra theo kiểu “muốn tránh cũng không được” – nhưng cái chết của các tế bào thường có chủ đích và mang tính chiến lược. Tại sao tế bào chết và chết như thế nào là chuyện khá phức tạp và có thể ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe tổng thể của chúng ta.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.