Hôm nay,  

Ngày ngưng bắn

24/04/202209:49:00(Xem: 3651)

Truyện ngắn

ARVN 1

 

Kho đạn thành Tuy Hạ nằm song song vòng vèo không xa lộ cao su vòng ngoài kia, đó là nơi tối tăm, nơi ẩn nấp của bọn cán binh Cộng sản, cả Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, chúng trà trộn khó phân biệt. Hồi nào tới giờ chúng hay bắn lén vào quận Nhơn Trạch và vòng rào thành và từ trong, đạn pháo cũng nã vào rừng tả tơi, tội nghiệp mấy lô cao su nhiều chỗ trúng đạn bật gốc kêu trời. Nhưng trời thì ở rất xa, mà những nòng súng lớn thì gần kề.

 

Chiều ngày 26/1/1973 đã là giờ thứ 23 mà tụi quân khăn rằn áo đen, vẫn từ Long Thành, xóm hố, tràn qua ngả Phú Hội mở màn pháo kích đại bác khá nhiều vào quận đường và thị xã Nhơn Trạch. Ông quận, ông phó quận và vị yếu khu trưởng kho đạn đã đề phòng kỹ, nên họ sẵn sàng đáp trả mạnh tay, rồi bỏ ngỏ vòng rào chợ và quận cho chúng đâm đầu vào ăn cố giờ chót, cũng cỡ gần 15 tên CS chết cháy vì đạn và mìn định hướng gây phỏng nặng, nằm co quắp đen thui. Tội nghiệp chúng mất mạng vào giờ thứ 24 vì cứ tuân theo lệnh trên.

 

Đúng 7 giờ sáng hôm sau, là mở đầu ngày hòa bình 27/1/1973 chuông chùa Pháp Hoa và chuông nhà thờ Đại Phước đổ dồn vang vang những hồi chuông hòa bình hạnh phúc giòn giã âm vang, người dân Thị Cầu, Phú Thạnh, Đại Phước ở mấy xã bao quanh nô nức kéo ra đường, vào nhà thờ, vào chùa, họ cúi mình tạ ơn, vị ngọt hòa bình từ bao năm nay mơ ước, giờ đã điểm. Dưới chợ, dưới bến phà, người ta ríu rít gọi nhau mua hoa quả, trái cây tươi đi dâng lễ. Người ta thấy cả phu nhân vị yếu khu trưởng ra chợ, bà vui vẻ đi một vòng chào thân ái các cửa hàng, bà sắm lễ vật, cam, soài, mận đỏ thắm, vàng nhang, bà nói bà cần mua nhiều nhiều vì bà muốn ra vòng ngoài kho đạn, vòng sát bìa rừng cao su bạt ngàn đó, để cúng, cúng vong các chiến sĩ tử vong cả hai bên… cúng cho những oan hồn uổng tử. Bà bảo tất cả họ, họ đều hy sinh cho chúng ta an bình.

 

Ở vòng ngoài đó, có một con lộ rộng bao quanh yếu khu, coi như là một vùng phi quân sự. Lạ đời, gọi như là khu phi quân sự, mà có nhiều gia đình miền Bắc mộ phu thời 45-50 lập từng ấp nhỏ, rải rác sống bên nhau, họ làm việc cho đồn điền, họ thường trao đổi hàng hóa xuống xã Thị Cầu, một xóm công giáo ở Bắc Ninh vào lập nghiệp thời di cư 1955 (thời Tổng thống Ngô Đình Diệm) giữa hai lằn ranh rừng và yếu khu, hồi trước vẫn có quân đội Đại Hàn và quân đội đồng minh Mãng Xà Vương Thái Lan trú đóng. Trước ngày hòa bình được tái lập họ tự động ra đi.

 

Khi binh lính thuộc binh đoàn Mãng Xà Vương đi rồi thì binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa gồm nghĩa quân, địa phương quân và cả biệt động quân về giữ an ninh vòng đai đó. Tạm gọi là vòng đai yếu khu, trên con đường vòng đó, có xe lam di chuyển là phương tiện giao thông của dân chúng các quận lỵ bao quanh. Tuy vậy trên con lộ vòng vèo nguy hiểm này cũng vắng vẻ. Nhưng hôm 27/1/1973 thì đông người hơn, có các binh sĩ nghĩa quân VNCH rủ nhau ra rẫy cỏ, phát quang bớt các bụi rậm, xe lam cũng chạy nhiều hơn mọi khi. Họ cười nói với nhau, ồ ồ, hòa bình rồi, đâu cần những lùm cây  những bụi rậm nữa… Họ vui đùa thoải mái. Ô này, anh em ơi! Ơi, ơi, có chúng tôi đây! Tự nhiên như  không khí, có tiếng đáp lại từ bên kia vòng rào kẽm gai thứ hai còn rậm rì, làm mấy người lính địa phương quân bên này ngừng tay làm việc, họ tò mò ngó sang hàng xóm, ở đó có sẵn áo đen khăn rằn lố nhố khá đông tới rồi.

 

Rồi có một người lấy hai tay đưa lên miệng làm cái loa nói lớn:

 

– Chúng tôi chào các anh em, hòa bình rồi hòa bình rồi, đừng bắn nữa đừng bắn nữa!

 

– Ơ, thế tối hôm qua, anh, các anh, ai còn bắn pháo đùng đùng thế? Giờ thì bạn muốn gì?

 

– Thì là tối hôm qua chưa hòa bình, lệnh ở trên ra mà.

 

– Vậy giờ bạn muốn gì?

 

– Muốn gì, cấp chỉ huy bên này muốn nói chuyện với một cấp chỉ huy bên ấy. Được không anh?

 

– OK, được quá đi chứ, để đi… đi hỏi lệnh trên đã.

 

Họ cùng cười, hơi chế giễu!

 

Chiều còn sớm, 3 giờ xế, như đúng hẹn, ông thiếu tá Long ra vòng rào gặp người của bên kia, bên kia không xa, họ đứng lố nhố với nhau ở một gốc cây, duy chỉ có một người tiến lại gần chào và đưa tay, tỏ ý muốn bắt tay đại úy Long. Người cán binh CS đó mặc đồ bộ đội, anh tự giới thiệu:

 

– Tôi tên Bính, Nguyễn Văn Bính, người Ý Yên Nam Định, là quân sĩ bổ sung từ ngoài vào, cấp bậc trung úy kiêm chính trị viên, tiểu đoàn Sông Bé, tôi vừa tới đây, chào mừng anh em, chào anh.

 

Ông đại úy đưa tay bắt tay xã giao với người cán binh cộng sản và nói luôn một hơi rất mạch lạc:

 

– Tôi, Bạch Thái Long, cũng người Ý Yên Nam Định, tôi đặc trách an ninh quận, từ Phú Thạnh, Phú Hội, bao gồm vòng ngoài Đại Phước này. Các anh có khỏe không?

 

– Cám ơn quận trưởng, chúng tôi còn đủ lương thực.

 

Nghe cán binh nói thế, ông quận trưởng cười xòa, bên kia đưa thuốc lá hoa mai ra mời và nhận đồng hương:

 

– Ừ, thì tôi cũng người ở đó, nhưng tôi xa miền Ý Yên, lâu, lâu lắm rồi. Tôi chỉ nhớ lơ mơ hình như ở Nam Định có cái cầu Hàm Rồng.

 

– Cầu vẫn còn đó.

 

Rồi Bính được thể hỏi luôn:

 

– Trong trận tối hôm qua, các anh thiệt hại ra sao? Tôi xin chia buồn… tôi nghĩ đó là trận chiến cuối cùng.

 

– Tôi cũng mong là vậy! Trận tối qua thì – ông quận ngừng nói, bật lửa và thở khói thuốc, trầm tư – bên tôi bị thương đã chuyển về bệnh viện Biên Hòa. Bên anh vì xông vào trực diện, làm hơn 16 người tử thương, còn nằm trong sân quận. Chúng tôi đã cho quàn sẵn trong các poncho, còn đó.

 

Bính tỏ ý muốn thu hồi xác đồng đội và đã được chấp nhận mau mắn. Đại úy Long thỏa mãn đối phương dễ dàng, ông muốn thu dọn chiến trường thật lẹ, tuy nhiên ông cảm thấy đắng nghẹt trong cổ họng, ưu tư ngập hồn, khi nhìn những xác Việt Cộng chết còn trẻ măng, quanh mình người nào cũng đeo một vòng tròn vải đựng gạo, gạo là gạo, gạo vung vãi khi họ tử thương, gạo trắng trộn lẫn máu đỏ. Tuổi trẻ sinh Bắc tử Nam để vinh danh cho ông Hồ Chí Minh?

 

Những ngày sau đó, Long và Bính còn gặp nhau thêm một vài lần qua vòng rào kẽm gai. Bính luôn gọi đại úy Long là anh xưng em, có lúc họ nói chuyện với nhau về quê hương Ý Yên xa tắp. Họ hút thuốc lá quân tiếp vụ và uống café gà men nhà binh do anh Long mời và Bính khen ngon đáo để.

 

Rồi một ngày sau, bất chợt từ sát bên kia hàng rào kẽm gai, mọc lên một cái cổng chào kiên cố, trên cổng chào, ngạo nghễ một lá cờ Mặt Trận bay lất phất như chọc tức Long! Cờ nửa xanh nửa đỏ với sao vàng ở giữa. Vị đại úy không ngần ngại hỏi Bính:

 

– Ai cho cậu làm cái trò khỉ này? Tôi không muốn nhìn thấy lá cờ Việt Cộng này ở đây!

 

– Anh cảm thông, đó là lệnh trên, vì có Ủy ban Kiểm soát Đình chiến sẽ đi qua đây nay mai.

 

– Ủy ban nào tới đây vẫn phải có phép của tôi, tôi cho phép cậu mang lùi lá cờ mặt trận kia lui vào sâu 100 mét, vì tôi không mốn nhìn thấy nó.

 

– Để em về báo cáo lệnh trên, sẽ xử lý sau.

 

– Tôi cho cậu 12 giờ để giải quyết nó.

 

Rồi 12 giờ qua đi, thêm 12 giờ nữa, lá cờ nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vẫn phần phật bay bay phất phới trong gió.

 

Bính thì biến đi đâu mất dạng đã 2 ngày qua. Ông quận ra thị sát lần nữa, rồi quay lưng về hội ý cùng yếu khu. Chiều cùng ngày, đại úy Long cùng hai người lính, đích thân lái xe, mang súng đại liên ra sát hàng rào ứng chiến.

 

Đoàng! Đoàng! Đoàng!

 

Họ bắn tan tành cái cổng chào, và bắn bay lá cờ quái ác, bắn cho nó chạy bay tan nát vô rừng sâu. Trúng đạn, hòa bình đã bị thương! Tối đó, nghe đạn AK nổ rào rào phía bên kia chiến tuyến. Hòa bình đã bị thương!

 

Chúc Thanh

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.