Hôm nay,  

Ngày ngưng bắn

24/04/202209:49:00(Xem: 3645)

Truyện ngắn

ARVN 1

 

Kho đạn thành Tuy Hạ nằm song song vòng vèo không xa lộ cao su vòng ngoài kia, đó là nơi tối tăm, nơi ẩn nấp của bọn cán binh Cộng sản, cả Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, chúng trà trộn khó phân biệt. Hồi nào tới giờ chúng hay bắn lén vào quận Nhơn Trạch và vòng rào thành và từ trong, đạn pháo cũng nã vào rừng tả tơi, tội nghiệp mấy lô cao su nhiều chỗ trúng đạn bật gốc kêu trời. Nhưng trời thì ở rất xa, mà những nòng súng lớn thì gần kề.

 

Chiều ngày 26/1/1973 đã là giờ thứ 23 mà tụi quân khăn rằn áo đen, vẫn từ Long Thành, xóm hố, tràn qua ngả Phú Hội mở màn pháo kích đại bác khá nhiều vào quận đường và thị xã Nhơn Trạch. Ông quận, ông phó quận và vị yếu khu trưởng kho đạn đã đề phòng kỹ, nên họ sẵn sàng đáp trả mạnh tay, rồi bỏ ngỏ vòng rào chợ và quận cho chúng đâm đầu vào ăn cố giờ chót, cũng cỡ gần 15 tên CS chết cháy vì đạn và mìn định hướng gây phỏng nặng, nằm co quắp đen thui. Tội nghiệp chúng mất mạng vào giờ thứ 24 vì cứ tuân theo lệnh trên.

 

Đúng 7 giờ sáng hôm sau, là mở đầu ngày hòa bình 27/1/1973 chuông chùa Pháp Hoa và chuông nhà thờ Đại Phước đổ dồn vang vang những hồi chuông hòa bình hạnh phúc giòn giã âm vang, người dân Thị Cầu, Phú Thạnh, Đại Phước ở mấy xã bao quanh nô nức kéo ra đường, vào nhà thờ, vào chùa, họ cúi mình tạ ơn, vị ngọt hòa bình từ bao năm nay mơ ước, giờ đã điểm. Dưới chợ, dưới bến phà, người ta ríu rít gọi nhau mua hoa quả, trái cây tươi đi dâng lễ. Người ta thấy cả phu nhân vị yếu khu trưởng ra chợ, bà vui vẻ đi một vòng chào thân ái các cửa hàng, bà sắm lễ vật, cam, soài, mận đỏ thắm, vàng nhang, bà nói bà cần mua nhiều nhiều vì bà muốn ra vòng ngoài kho đạn, vòng sát bìa rừng cao su bạt ngàn đó, để cúng, cúng vong các chiến sĩ tử vong cả hai bên… cúng cho những oan hồn uổng tử. Bà bảo tất cả họ, họ đều hy sinh cho chúng ta an bình.

 

Ở vòng ngoài đó, có một con lộ rộng bao quanh yếu khu, coi như là một vùng phi quân sự. Lạ đời, gọi như là khu phi quân sự, mà có nhiều gia đình miền Bắc mộ phu thời 45-50 lập từng ấp nhỏ, rải rác sống bên nhau, họ làm việc cho đồn điền, họ thường trao đổi hàng hóa xuống xã Thị Cầu, một xóm công giáo ở Bắc Ninh vào lập nghiệp thời di cư 1955 (thời Tổng thống Ngô Đình Diệm) giữa hai lằn ranh rừng và yếu khu, hồi trước vẫn có quân đội Đại Hàn và quân đội đồng minh Mãng Xà Vương Thái Lan trú đóng. Trước ngày hòa bình được tái lập họ tự động ra đi.

 

Khi binh lính thuộc binh đoàn Mãng Xà Vương đi rồi thì binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa gồm nghĩa quân, địa phương quân và cả biệt động quân về giữ an ninh vòng đai đó. Tạm gọi là vòng đai yếu khu, trên con đường vòng đó, có xe lam di chuyển là phương tiện giao thông của dân chúng các quận lỵ bao quanh. Tuy vậy trên con lộ vòng vèo nguy hiểm này cũng vắng vẻ. Nhưng hôm 27/1/1973 thì đông người hơn, có các binh sĩ nghĩa quân VNCH rủ nhau ra rẫy cỏ, phát quang bớt các bụi rậm, xe lam cũng chạy nhiều hơn mọi khi. Họ cười nói với nhau, ồ ồ, hòa bình rồi, đâu cần những lùm cây  những bụi rậm nữa… Họ vui đùa thoải mái. Ô này, anh em ơi! Ơi, ơi, có chúng tôi đây! Tự nhiên như  không khí, có tiếng đáp lại từ bên kia vòng rào kẽm gai thứ hai còn rậm rì, làm mấy người lính địa phương quân bên này ngừng tay làm việc, họ tò mò ngó sang hàng xóm, ở đó có sẵn áo đen khăn rằn lố nhố khá đông tới rồi.

 

Rồi có một người lấy hai tay đưa lên miệng làm cái loa nói lớn:

 

– Chúng tôi chào các anh em, hòa bình rồi hòa bình rồi, đừng bắn nữa đừng bắn nữa!

 

– Ơ, thế tối hôm qua, anh, các anh, ai còn bắn pháo đùng đùng thế? Giờ thì bạn muốn gì?

 

– Thì là tối hôm qua chưa hòa bình, lệnh ở trên ra mà.

 

– Vậy giờ bạn muốn gì?

 

– Muốn gì, cấp chỉ huy bên này muốn nói chuyện với một cấp chỉ huy bên ấy. Được không anh?

 

– OK, được quá đi chứ, để đi… đi hỏi lệnh trên đã.

 

Họ cùng cười, hơi chế giễu!

 

Chiều còn sớm, 3 giờ xế, như đúng hẹn, ông thiếu tá Long ra vòng rào gặp người của bên kia, bên kia không xa, họ đứng lố nhố với nhau ở một gốc cây, duy chỉ có một người tiến lại gần chào và đưa tay, tỏ ý muốn bắt tay đại úy Long. Người cán binh CS đó mặc đồ bộ đội, anh tự giới thiệu:

 

– Tôi tên Bính, Nguyễn Văn Bính, người Ý Yên Nam Định, là quân sĩ bổ sung từ ngoài vào, cấp bậc trung úy kiêm chính trị viên, tiểu đoàn Sông Bé, tôi vừa tới đây, chào mừng anh em, chào anh.

 

Ông đại úy đưa tay bắt tay xã giao với người cán binh cộng sản và nói luôn một hơi rất mạch lạc:

 

– Tôi, Bạch Thái Long, cũng người Ý Yên Nam Định, tôi đặc trách an ninh quận, từ Phú Thạnh, Phú Hội, bao gồm vòng ngoài Đại Phước này. Các anh có khỏe không?

 

– Cám ơn quận trưởng, chúng tôi còn đủ lương thực.

 

Nghe cán binh nói thế, ông quận trưởng cười xòa, bên kia đưa thuốc lá hoa mai ra mời và nhận đồng hương:

 

– Ừ, thì tôi cũng người ở đó, nhưng tôi xa miền Ý Yên, lâu, lâu lắm rồi. Tôi chỉ nhớ lơ mơ hình như ở Nam Định có cái cầu Hàm Rồng.

 

– Cầu vẫn còn đó.

 

Rồi Bính được thể hỏi luôn:

 

– Trong trận tối hôm qua, các anh thiệt hại ra sao? Tôi xin chia buồn… tôi nghĩ đó là trận chiến cuối cùng.

 

– Tôi cũng mong là vậy! Trận tối qua thì – ông quận ngừng nói, bật lửa và thở khói thuốc, trầm tư – bên tôi bị thương đã chuyển về bệnh viện Biên Hòa. Bên anh vì xông vào trực diện, làm hơn 16 người tử thương, còn nằm trong sân quận. Chúng tôi đã cho quàn sẵn trong các poncho, còn đó.

 

Bính tỏ ý muốn thu hồi xác đồng đội và đã được chấp nhận mau mắn. Đại úy Long thỏa mãn đối phương dễ dàng, ông muốn thu dọn chiến trường thật lẹ, tuy nhiên ông cảm thấy đắng nghẹt trong cổ họng, ưu tư ngập hồn, khi nhìn những xác Việt Cộng chết còn trẻ măng, quanh mình người nào cũng đeo một vòng tròn vải đựng gạo, gạo là gạo, gạo vung vãi khi họ tử thương, gạo trắng trộn lẫn máu đỏ. Tuổi trẻ sinh Bắc tử Nam để vinh danh cho ông Hồ Chí Minh?

 

Những ngày sau đó, Long và Bính còn gặp nhau thêm một vài lần qua vòng rào kẽm gai. Bính luôn gọi đại úy Long là anh xưng em, có lúc họ nói chuyện với nhau về quê hương Ý Yên xa tắp. Họ hút thuốc lá quân tiếp vụ và uống café gà men nhà binh do anh Long mời và Bính khen ngon đáo để.

 

Rồi một ngày sau, bất chợt từ sát bên kia hàng rào kẽm gai, mọc lên một cái cổng chào kiên cố, trên cổng chào, ngạo nghễ một lá cờ Mặt Trận bay lất phất như chọc tức Long! Cờ nửa xanh nửa đỏ với sao vàng ở giữa. Vị đại úy không ngần ngại hỏi Bính:

 

– Ai cho cậu làm cái trò khỉ này? Tôi không muốn nhìn thấy lá cờ Việt Cộng này ở đây!

 

– Anh cảm thông, đó là lệnh trên, vì có Ủy ban Kiểm soát Đình chiến sẽ đi qua đây nay mai.

 

– Ủy ban nào tới đây vẫn phải có phép của tôi, tôi cho phép cậu mang lùi lá cờ mặt trận kia lui vào sâu 100 mét, vì tôi không mốn nhìn thấy nó.

 

– Để em về báo cáo lệnh trên, sẽ xử lý sau.

 

– Tôi cho cậu 12 giờ để giải quyết nó.

 

Rồi 12 giờ qua đi, thêm 12 giờ nữa, lá cờ nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vẫn phần phật bay bay phất phới trong gió.

 

Bính thì biến đi đâu mất dạng đã 2 ngày qua. Ông quận ra thị sát lần nữa, rồi quay lưng về hội ý cùng yếu khu. Chiều cùng ngày, đại úy Long cùng hai người lính, đích thân lái xe, mang súng đại liên ra sát hàng rào ứng chiến.

 

Đoàng! Đoàng! Đoàng!

 

Họ bắn tan tành cái cổng chào, và bắn bay lá cờ quái ác, bắn cho nó chạy bay tan nát vô rừng sâu. Trúng đạn, hòa bình đã bị thương! Tối đó, nghe đạn AK nổ rào rào phía bên kia chiến tuyến. Hòa bình đã bị thương!

 

Chúc Thanh

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.