Hôm nay,  

Phật pháp vào chốn lao tù

28/07/202216:48:00(Xem: 3339)

Tùy bút 


nguyencau

Câu chuyện bắt đầu rất đau buồn nhưng về sau lại mở ra một cánh cửa mới đầy hy vọng và tỉnh thức. Zach Obseon lúc nhỏ đã chứng kiến em gái của mình bị hiếp và giết chết, sau này lớn lên anh theo học ngành cảnh sát với tâm nguyện ngăn chặn cái ác, không để xảy ra những trường hợp như em gái của mình. Về phần kẻ thủ ác, anh ta tên  Dennis Skillicorn , sau khi bị bắt và chịu án chung thân không ân xá. Trong thời gian ở tù, anh ta đã ăn năn tội lỗi của mình, anh ta và những bạn tù khác lập ra tờ báo “Compassion”, số tiền thu được làm học bổng cho Obseon cũng như những học viên cảnh sát khác. Có một đoạn được trích từ tờ báo ấy:” Chúng tôi muốn trợ giúp Obseon hoàn thành giấc mơ trở thành cảnh sát hình sự để ngăn chặn tội ác bạo động trong tương lai”. Người tù chung thân và những bạn bè của anh ta đã làm báo lấy tiền hỗ trợ tài chánh cho các học viên cảnh sát với hy vọng là sẽ có thêm những nhân viên công lực bảo vệ an toàn xã hội, ngăn chặn cái ác.


Chuyện tù nhân ăn năn sám hối tội lỗi vốn không lạ, tù nhân làm báo là một chuyện hy hữu của thế gian này, có thể nói là việc chưa từng nghe thấy ở bất cứ nơi đâu trên thế giới. Đây là câu chuyện được thuật lại trong quyển:” Nữ tu và tù nhân Hoa Kỳ” của ni sư Thích Nữ Giới Hương. Trong quyển này còn có một số lượng lớn thư từ của các tù nhân viết gởi cho ni sư, cảm ơn ni sư, trình bày sự chuyển biến thay đổi của con người họ. Một sự thay đổi vô cùng ngoạn mục từ nhận thức đến hành động, một sự thay đổi khó tin nổi nhưng đây là một sự thật. Trong nhà Phật thường nói không có phép thuật mầu nhiệm, phép thuật mầu nhiệm không phải là đi trên mặt nước hay phun lửa nhả khói, phép lạ nhiệm mầu chính là thay đổi một con người. Đọc xong quyển sách này, tôi thấy đây là cả một phép lạ mầu nhiệm mà ni sư Giới Hương cùng các tu sĩ và hội thiền Milwaukee khác đã thực hiện được ở một số nhà tù của tiểu bang Wisconsin.


Trong suốt nhiều năm, ni sư Giới Hương, ni sư Tonen và các tu sĩ khác của hội thiền học Milwaukee đã đi đến nhiều nhà tù để trợ giúp tinh thần cho các tù nhân, dạy thiền, hướng dẫn Phật pháp, có thể kể tên vài nhà tù trọng cấm khét tiếng như: Dodge Correctional Institution, Green Bay Correctional Institution, Oshkosh, WI.


Mọi người chúng ta cũng biết đấy, chốn lao tù là nơi giam giữ những kẻ phạm pháp luật, nhưng chốn lao tù lại vắng bóng pháp luật, ở đấy chỉ có luật rừng, luật giang hồ, đại bàng, đầu gấu, nha trảo… hành xử thay pháp luật. Ở đấy chỉ có sức mạnh và sự tàn ác thống trị, trong chốn ấy tù nhân chẳng còn nhân phẩm danh giá gì, ngay cả thân xác cũng bị bạo hành thường xuyên. Những tù nhân chịu án chung thân hay tử hình thì càng ghê gớm hơn. Họ không còn gì để mất nên rất hung hãn và tàn bạo… Ấy vậy mà ni sư Giới hương một phụ nữ chấu Á nhỏ bé cùng với những tu sĩ khác dám dấn thân vào chốn lao tù để hoằng pháp độ sanh. Việc làm của ni sư đã có hiệu quả to lớn, khá nhiều tù nhân đã chịu lắng nghe, chịu thực hành thiền, họ nhìn lại bản thân họ, quán lại nội tâm họ. Rất nhiều tù nhân trở nên hiền hơn, bớt bạo động, loạn động, quậy phá, đánh nhau. Quan trọng là họ nhìn ra sự thật và chấp nhận hậu quả đã gây ra. Họ tìm được sự an lạc ngay trong những ngày tháng bị giam giữ. Quản giáo các nhà tù cũng rất có thiện cảm và họ tạo điều kiện thuận lợi cho ni sư và các tu sĩ hoạt động. Rất nhiều lá thư viết rất cảm động, họ cảm ơn ni sư, ta có thể kể tên vài tù nhân như:  Cadence, Brodwin, Jackson, Amanda, Nathniel… Và có cả tù Việt nữa như: Cong Tran…


Ni sư Giới hương người Bình Tuy, thuở nhỏ quy y với sư bà Hải triều Âm, ni sư đã tốt nghiệp khoa văn trường đại học tổng hợp ( tức trường văn khoa cũ), sau đó du học ở Ấn Độ mười năm và hoàn thành luận án tiến sĩ Phật học ở đại học Delhi.Năm 2005 ni sư sang Mỹ hoằng pháp và lại tốt nghiệp cử nhân khoa văn của trường đại học Riverside ( Ca), hiện thời đang học cao học ngành văn chương cũng trường Riverside (Cali). Ni sư sáng lập chùa Hương Sen ở Cali và Hương Sen ở Sài Gòn. Ni sư đã viết hàng chục cuốn sách và biên soạn một số kinh điển, có thể kể tên vài đầu sách như: Nữ tu và tù nhân Hoa Kỳ (đã tái bản đến lần thứ 5), Nét bút bên song cửa, Luân hồi trong kinh lăng nghiêm, Pháp ngữ trong kinh kim cang... Vừa rồi tôi có duyên lành được ni sư tăng một số sách, quả thật với số sách này chắc phải đọc cả tháng mới xong. Tôi thật sự kinh ngạc với năng lực viết sách và biên soạn của ni sư, một năng lực thật kinh khủng, không làm sao hiểu nổi ni sư có thể viết chừng ấy sách trong khi đó lúc nào cũng bận rộn làm việc cật lực, nào là lo xây dựng chùa, tham gia giảng dạy ở học viện Phật giáo ( Sài Gòn), đi thuyết pháp, lên mạng thuyết pháp, đi các nhà tù trợ giúp tinh thần cho tù nhân, đi tham học các nơi… Ni sư cần mẫn làm việc cả chân tay lẫn trí óc, một năng lực đáng kinh ngạc. Thật sự không hiểu từ đâu mà ni sư có một trí lực, sức lực kinh khủng đến như thế. Một thân thể cũng tầm thước bình thường như mọi người Việt nhưng lại ngầm chứa nội lực thật kinh khủng, sở dĩ tôi lập đi lập laị hai chữ kinh khủng vì quá khâm phục sức làm việc của ni sư. Trong đầu tôi lại tái khởi câu hỏi mà tôi đã nhiều lần tự hỏi:” Cũng thân thể con người ta như thế, cũng ăn cơm uống nước hít thở khí trời như thế, cớ sao có những người lại thông minh một cách tuyệt vời, giỏi giang và tài hoa tuyệt đỉnh còn mình thì như cái bị thịt, cứ sống lây lấy ù ù cạc cạc cho qua ngày?”


Đây chỉ là câu hỏi tu từ, hỏi để mà hỏi chứ thật sự ai cũng biết, hỏi để thố lộ nỗi lòng trong phút chốc vì thấy ai cũng tài giỏi mà mình thì “Như cái bị thịt vô tích sự”. Mọi việc, mọi sự trên thế gian này không có gì nằm ngoài cái mối: Nhân – duyên – quả cả! 


Ni sư Giới Hương  hoạt động không mệt mỏi, đi khắp các chùa ở Mỹ để hoằng pháp, đi nhiều nhà tù để độ sanh, giúp chữa trị tinh thần cho tù nhân, vực họ dậy từ hoang vu tro tàn của sự hoang mang tuyệt vọng. Quý vị cứ thử hình dung nhé, một phụ nữ châu Á nhỏ con, khác biệt văn hóa, tập quán, truyền thống và đức tin… vậy mà đã thuyết phục, thuyết pháp cho những tù nhân Mỹ, Phi to như đô vật, hung hăng và rất manh động. Thế mà bọn họ đã nghe và đã thực hành theo lời ni sư, phải có phước đức lớn lắm mới có thể làm được một việc tưởng chừng như không thể. 


Ni sư Giới Hương có thể nói là một nhân tài trong Phật giáo Việt Nam hiện đại, xứng đáng là ni trưởng trong ni giới Việt (cả hải ngoại lẫn quốc nội). Chủ nhật vừa rồi, ni sư cùng với mấy huynh đệ của mình sang thành Ất Lăng dự lễ tưởng niệm ân sư hòa thượng Thích Như Minh. Tôi có dịp được gặp ni sư trong một buổi. Tôi ngầm quan sát xem ni sư (với sự kính trọng) có những quý tướng nào chăng hay có những dấu hiệu kiệt xuất, nhưng tôi thấy ni sư cũng bình dị như mọi ni sư khác: hiền hòa, từ ái, vui vẻ và khá nhanh nhẹn, nói năng rõ ràng, khúc chiết. Ấy vậy mà trong cái thân ngũ uẩn ấy lại có một năng lực thật đáng để khâm phục, một sức làm việc không mệt mỏi, sức sáng tác mạnh mẽ, một trí lực thông minh mẫn tiệp, thật xứng đáng là trưởng tử của Như Lai.


Ni sư đã đi nhiều nhà tù để hướng dẫn phật pháp cho tù nhân, Phật pháp không còn là nói huyền nói diệu, không phải ở những bộ kinh đồ sộ thâm sâu ý nghĩa, Phật pháp cũng không ở trong những bảo điện nguy nga lộng lẫy. Phật pháp đã áp dụng ngay trong đời thường, Phật pháp vào chốn lao tù, cái chốn đau khổ, đen tối nhất của cõi người. Phật pháp đã đến với tù nhân, những con người phạm tội, những con người mất tự do vì phải trả giá cho tội ác của mình. Phật pháp đã vực dậy và làm thay đổi không ít con người trong cái chốn khốn cùng ấy. Những con người từ tuyệt vọng, hung hãn, manh động, không còn mục đích và ý nghĩa gì để sống đã trở thành những con người hiền hơn, biết phục vụ cho tha nhân cho dù bản thân vẫn phải chịu giam cầm vì tội lỗi của mình trước kia. Phật pháp đến với những tù nhân của ngục tù thế gian, ngục tù của sự si mê sân hận, ngục tù của tối tăm không lối thoát… Những con người vừa đáng giận vừa đáng thương ấy đã nhận được pháp nhũ, đã cảm thọ được diệu pháp từ ni sư Giới Hương và những tu sĩ khác, những vị sư can đảm, vô úy, vị tha đã đem phật pháp vào chốn lao tù.


-- Tiểu Lục Thần Phong 

(Ất Lăng thành, 07/22)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.