Hôm nay,  

Thy will be done

01/01/202313:29:00(Xem: 3767)
Truyện

hoangquan
Ta nghiêng vai soi lại cuộc đời -- Tranh Đỗ Duy Tuấn.

  

Nàng đã đọc đâu đó câu nói của văn sĩ người Anh C.S. Lewis: “There are two kinds of people. Those who say to God “Thy will be done” and those to whom God says: “All right, then, have it your way.”

 

Hồi còn bé tí tẹo, nàng đã biết băn khoăn về tuổi của mình. Tình cờ, nghe bà thím nói chuyện, những người sinh năm Canh Tý số vất vả, cực khổ. Lời nói đó để dấu trong đầu óc non nớt của đứa bé mới vào trung học. Nàng nghĩ, cả thế gian chỉ mỗi mình nàng có tuổi Canh Tý. Nàng không muốn có cuộc đời đã định của tuổi Canh Tý. Rất sớm, nàng manh nha ý định “cải số” của mình. Theo suy nghĩ trẻ con của nàng, nhỏ học giỏi, lớn an nhàn. Nàng không nhớ rõ mình đã áp dụng “chiến lược” này từ lúc bao nhiêu tuổi. Có lẽ, nàng mê học trước khi biết đọc chữ. Nàng đã ăn cháo thánh từ thuở tiểu học. Khi nhà có cúng giỗ, nhất là dịp cúng tất niên, cao lương mỹ vị ê hề. Con nít háo hức chờ tàn nhang để tranh nhau con cua luộc đỏ thắm, cái trứng vịt luộc tròn quay. Hoặc hau háu ngó những lát chả lụa xắt hình thoi, những cuốn ram chiên vàng óng ả. Con bé tuổi Canh Tý nôn nao nhìn đầu bàn, có lư hương, những cây đèn sáp, những nải chuối với hoa phượng vàng ở trên, và quan trọng nhất, có chén cháo thánh. Nàng nghe nói, cháo thánh sẽ giúp đầu óc sáng suốt, học mau, hiểu lẹ, nhớ dai. Với niềm tin mãnh liệt đó, nàng thấy cháo thánh ngon hơn món bồ câu hầm hạt sen hay vịt nấu măng. Cháo thánh đã hiệu nghiệm suốt bao nhiêu năm làm học trò của nàng.

 

Một lần, nàng và nhỏ bạn hàng xóm, Ti Ti, hai đứa chơi vũ cầu xong, ghé ngồi nơi hiên nhà của vợ chồng chú Lương, vừa nói chuyện, vừa chia nhau nhâm nhi miếng kẹo đậu phụng đường đen. Thím Lương quay qua Ti Ti:

 

– Mặt mi vầy, trẻ lâu đó nghen.

 

Thím chỉ qua nàng:

 

– Chớ mặt của hắn, nét đó mau già lắm.

 

Nàng ngẫm nghĩ, như mấy anh chị sắp thi tú tài là lớn. Con bé nhìn thím Lương, như thím là già. Thôi, mình chẳng thích già như thím. Nhưng con bé chẳng có thì giờ suy tư thêm. Ti Ti kéo tay con bé, lôi tuồn tuột, rủ chạy ra sau hẻm nhà bà Xê hái trộm vài bông bí, bông bầu chơi. Gần 10 năm sau, con bé gặp lại Ti Ti. Hai đứa ngang tuổi nhau. Mà bây giờ, Ti Ti “già” bằng chị lớn của nó. Nàng nhớ ngay lời nhận xét của thím Lương. Vậy là thím trật lất rồi. Nàng có hề mau già đâu. Nàng vào đại học. Người bạn cùng niên khóa thấy nàng, tưởng, nhóc tì lớp chín, lớp mười theo anh chị vào khuôn viên đại học cho vui. Khi sang Đức, học cùng lớp có người bạn tên Dần, bởi anh sinh năm Dần. Anh thường vui miệng xưng mình là chúa tể sơn lâm. Nói chuyện với nàng, anh chàng cứ một hai, xưng anh Dần, gọi nàng là bé, ngọt xớt. Anh Dần đâu ngờ là “bé” hơn anh hai tuổi. Vậy đó, dù không chủ tâm, nàng đã cải số về ngoại hình của mình.

 

Từ lâu, nàng chẳng còn bận tâm mơ mắt bồ câu, mũi dọc dừa, miệng trái tim. Nàng biết quý trọng sức khỏe và tinh thần mình hơn, dù chất điệu vẫn còn đậm nơi nàng. Lắm khi, nàng dám ngang nhiên xem lời khen, trẻ hơn so với số tuổi, là nhận xét trung thực. Nàng cứ lừng khừng, để người khác đoán sai về tuổi thật của mình. Nghĩ cho kỹ, thái độ đó là sự thiếu thành thật đối với bản thân mình. Nét già của bề ngoài có hề chi. Tóc bạc? Có thuốc nhuộm biến muối thành tiêu. Da nhăn? Có mỹ phẩm trợ giúp. Nhưng sự lão hóa của tâm hồn mới đáng ngại. Nàng cảm được sự cằn cỗi của hồn mình. Nàng loay hoay một thời gian. Cuối cùng, nàng tìm được đáp số làng nhàng cho mình. Nàng tương đối hóa mọi cảm nhận trong cuộc sống. Nàng không còn mít ướt, hở chút khóc. Nàng chấp nhận nghe tiếng cười của mình chẳng còn giòn giã như xưa. Con tim đã rất nhạy cảm của nàng đâm ra hờ hững với mọi chuyện. Nàng có mặt khắp nơi. Nhưng có lẽ, thưởng ngoạn chỉ là phụ. Mà nặng phần nghiên cứu, thu thập thông tin, để mỗi khi ai bàn đến đề tài nào, nàng vẫn có thể góp chuyện được. Đôi khi nàng có ý nghĩ “trịch thượng”, cười chế diễu những nhớ nhớ, nhung nhung trong thơ văn nhạc. Xem những xao xuyến, tương tư là trò trẻ con lẩm cẩm. Thời kỳ, ai nấy xôn xao đi xem phim Titanic. Nàng bỏ mấy tiếng đồng hồ, chiều một mình ra phố, tìm rạp xi– nê. Nàng ngáp dài, ngáp ngắn, chờ hết phim. Vào hãng, tán gẫu với bạn đồng nghiệp. Nàng bảo, câu chuyện hời hợt, kịch tính tầm thường. Cảnh chàng và nàng đứng nơi đầu tàu được nhiều người trầm trồ là thơ mộng, lãng mạn. Nghe đâu cô ca sĩ Céline Dion mơ có ngày được đóng với kép độc Leonardo DiCaprio. Nàng nhún vai:

 

– Tôi thấy cảnh ấy giả tạo, nhạt nhẽo.

 

Ralph, bạn đồng nghiệp thân của nàng, ngạc nhiên:

 

– Làm việc với em đã lâu. Tôi ngỡ em là người đa cảm, lãng mạn. Mà miết đến bữa nay mới biết: Em có nhiều óc hơn tim.

 

Mehr Hirn als Herz. Óc nhiều hơn tim, kiểu nói của người Đức, ám chỉ những phụ nữ lăm le đòi khôn ngoan hơn đàn ông và say mê công việc hơn hình bóng của người khác phái. Nàng chúa ghét những phụ nữ như vậy. Nàng sa sầm, mặt quạu đeo. Ralph biết nàng giận, lấy thỏi sô– cô– la giúi vào tay nàng:

 

– Thôi, giỡn chút mà. Không bằng lòng tôi rút lời lại.

 

Những khi đi ăn trưa chung, Ralph hay năn nỉ nàng kể chuyện quê nhà. Nàng tả phong tục, tập quán, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó trong hôn nhân ở Việt Nam. Ralph có vẻ không tin, ghẹo:

 

– Hồi đó, cha mẹ em cũng đặt chỗ cho em hả?

 

Nàng nghiêm mặt:

 

– Không, tôi giới thiệu chỗ, để cha mẹ tôi đặt. Hên, cha mẹ tôi đồng ý. Nếu không, tôi sẽ ở vậy, chờ cha mẹ đặt, mới dám ngồi.

 

Ralph trợn tròn mắt:

 

– Thiệt sao? Em không tranh đấu hay là tự quyết định cho mình?

 

– Không! Xứ tôi người ta nói: Cá không ăn muối cá ươn/ Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.

 

Nàng rị mọ tìm chữ tiếng Đức cắt nghĩa cho Ralph nghe. Nàng nghĩ thầm, bây giờ, nếu phải có những quyết định tương tự cho đời mình, có lẽ nàng cũng chẳng dám đi ngược lại những mong đợi và phán xét của gia đình và chính bản thân nàng. Cứ thế, nàng ung dung tự tại trong cuộc sống, để vô số đam mê lụn tàn. Ắt hẳn do cuộc sống có được quân bình tương đối, nàng đâm ra lười biếng. Dòng đời trôi suôn sẻ, bình lặng, ngược với tâm hồn hiếu động ngày xưa của nàng.

 

Bỗng nhiên, có những tình cờ nho nhỏ. Một người bạn thư, giúp nàng bỏ thì giờ quay đầu lại, để “tôi tìm thấy tôi”. Nàng gặp lại con bé ranh mãnh, tinh quái mà bạn bè thông dịch gọn là ba gai. Nàng tìm trong tự điển những chữ liên quan đến tuổi tác của anh, gọi anh là cà kê, tức là cà chua, cà khịa, cà tàng... Dần dà, anh chứng minh có đầy đủ những đức tính “cà” làm nàng cà... lăm. Nàng có tật liên tưởng quàng xiên. Thấy cây kim, nàng nghĩ ngang, nghĩ dọc một hồi, cũng thành chiếc phi thuyền. Nàng say sưa kể chuyện hoa lá. Đột nhiên nàng khựng lại, ngúng nguẩy:

 

– Bàn bạc với các ông về hoa lá, như nước đổ lá môn. Chi bằng nói chuyện với đầu gối còn hơn.

 

Anh chẳng chấp nê chi kiểu nói láo lếu của nàng. Anh kể, vườn nhà anh um tùm lắm. Anh sẽ dọn dẹp, trồng cây môn, rồi đổ nước lên lá, để hiểu ẩn dụ của nàng, để đủ trình độ chuyện trò với đầu gối của nàng. Nàng rét, nói chuyện với anh, uốn lưỡi bảy lần, xem ra chưa đủ.

Với những “tình khúc trên chiến trường” rộn rịp đó, nàng tưởng mình yên tâm đứng trong vườn, đối thoại với anh bên kia hàng rào. Thỉnh thoảng, anh vờ sơ ý, đẩy hàng rào đây kia. Nàng kỹ càng, cẩn tắc vô ưu, giăng thêm kẽm gai. Anh giả đò, ủa, tưởng đó là giậu mồng tơi của Nguyễn Bính. Nàng tăng cường lực lượng, gài điện cao thế vào kẽm gai. Anh bảo, điếc không sợ súng. Nàng cảnh cáo, điện cao thế giật chết tươi, bất kể người phá rào điếc hay đui. Thấy chiến trường có nhiều phát triển bất lợi cho “chiến tuyến” của mình, nàng áp dụng chiến thuật vườn không, nhà trống. Nàng xóa hết điện thư. Xóa vĩnh viễn, chứ không gởi tạm trong thùng giấy. Nàng có việc phải đi vắng nhiều ngày. Tưởng là địch quân đã rút. Nhưng không, anh bảo, ai nói anh không lì. Không lì sao chờ tới mấy chục năm cho đến khi nàng xuất hiện. Nàng không nhịn cười được. Tưởng như thấy mũi anh đang dài ra như mũi thằng người gỗ Pinocchio. Nhưng nàng phải cất ngay nụ cười, khi nghe tiếng anh thở dài sườn sượt:  Em gặp ta khi chiều tàn, nắng xế/ Ta thấy em khi ngày xuống, trễ tràng.

 

Một cuối tuần, nhờ anh nhắc, nàng đọc được cuốn sách hay. Cuốn sách ngủ vùi trên kệ tủ hơn mười năm. Trong sách, có lá thư nhỏ bạn viết cho nàng. Nàng vui cả ngày Chủ Nhật. Nàng nghĩ đến anh, viết thư cám ơn. Nàng quanh co giải thích hai động từ, to thinkto miss. Rồi một mực đính chính rằng, nàng chỉ dùng to think. Anh cười, ủa, có bắt buộc như vậy không? Có gì sai, nếu mình nhớ người mang niềm vui đến cho mình. Nàng chẳng biết trả lời thế nào. Anh chấm dứt điện thư bằng miss ya. Nàng thắc mắc, công giáo có Amen, phật giáo có Mô Phật. Chữ miss ya là của tôn giáo nào. Anh chẳng giải đáp câu hỏi, cứ viết miss ya, rồi mở ngoặc, đó là sinh hoạt phía bên anh, đối phương đâu có quyền kiểm soát.

 

Ngồi ăn trưa với đồng nghiệp, cô bạn quan sát:

 

– Chị có nút ruồi ở tai phải nè. Coi hay hay đó chứ.

 

Nàng diễu:

 

– Có nút ruồi ở tai, được nghe nhiều lời ngọt ngào.

 

Anh bạn đồng nghiệp tủm tỉm:

 

– Vậy là em tha hồ nghe mấy anh đây nói cả ngày chứ gì.

 

Nàng tránh bẫy:

 

– Ô, không phải vậy. Nút ruồi chỉ hoạt động sau giờ hành chánh thôi. Còn trong văn phòng, chỉ nghe mệnh lệnh, yêu cầu làm việc thôi.

 

Nói đùa với bạn bè vậy. Nhưng nàng biết mình có tật ưa nghe nói ngọt. Nàng thường cảnh giác mình, để đừng… khuân lúa giống đi bán. Người đời thường nói, bệnh thì chữa được, nhưng tật thì mãn tính. Cho nên, nghe ai nói ngọt, nàng sợ, cuống cuồng tìm thuốc chữa tật. Xem ra, tiền mất, mà tật vẫn mang. Nốt ruồi ở tai nàng phải làm việc suốt, vì những điện thư ngọt lịm của anh.

 

Nàng không nhận ra là tiếng cười của nàng đã có những thanh âm là lạ. Bạn bè nàng hỏi nguyên cớ về niềm vui bất ngờ. Nàng la toáng rằng, bạn bè khéo tưởng tượng. Con bạn thân của nàng, thường khi, chuyên vẽ đường cho… nàng chạy. Nó xất bất xang bang, tìm mấy anh bạn học cũ cho nàng. Nó sắp xếp cho nàng gặp người này, người kia, và yên tâm, chắc chắn mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh. Mà thật vậy. Gặp bạn bè xưa, nàng thật vui. Chỉ ôn chuyện cũ mà thôi. Không hề có màn, tiễn đưa nhau đi rồi, con mắt liếc còn có đuôi. Bây giờ, nàng kể sơ sơ vài đối thoại qua điện thư, chớ nàng đã kiến kỳ hình đâu. Vậy mà nhỏ bạn lại cảm thấy dấu hiệu ngầm của thiên tai. Nó phân tích, giảng giải rạch ròi, rồi khuyên: “Mày phải chặt cầu.” Nàng chưng hửng vì phản ứng nhỏ bạn. Nàng nghĩ thật lâu. Phải chăng ai cũng thấy sự thay đổi nơi nàng. Chỉ riêng nàng, cứ khăng khăng và tin rằng, nên đến trăm lần: “Nhất định mình chưa...” Nàng bỗng thấy mình ngớ ngẩn không thể tưởng. Cứ cho cái sự “vui cực kỳ” của mình tự nhiên, như khi trẻ con cười ngặt nghẽo xem Mr. Bean diễu.

 

Nàng nghe anh kể về những chuyến đi câu. Hèn chi, khi đối thoại, anh rất rành tung lưới. Những cung bậc trong những câu hỏi của anh cứ quanh quẩn trong trí nàng như điệu nhạc du dương. Anh vờ khen, nàng giỏi, nàng khôn. Nàng tưởng thiệt, nghĩ mình là cao nhân, vui sướng được đại cao nhân thấy chân tài. Anh lộng giả, nàng không để ý. Đến khi thấy sự việc có vẻ thành chân, nàng hốt hoảng. Nàng tìm đường thoát. Nàng nhìn quanh, đông tây nam bắc, bốn phương, tám hướng. Ngó đi đâu, nàng cũng thấy những sợi lưới làm nàng quýnh quíu.

 

Nàng tìm góc kín đọc điện thư. Lúc lúc, nàng phải vờ cúi đầu xuống để che nụ cười thích thú hoặc vẻ thẫn thờ của đắn đo, lo âu. Tiếng Việt thật tuyệt vời. Sầu muộn, hễ muộn màng thì sẽ sầu hay sao? Yêu dấu, hễ yêu thì phải giấu hay sao. Nàng giật mình, ủa, nàng đã yêu chưa mà phải giấu?

 

Nàng dần dà nhận ra, cơn gió nhẹ, nàng đinh ninh không đong đưa nổi ngọn cỏ gầy, dường như có khả năng làm trốc cả gốc cây cổ thụ. Nàng nhớ câu nói: “Trái tim có lý lẽ riêng của nó mà lý trí chẳng bao giờ hiểu được.” Ngày xưa, còn nhỏ, nàng chưa hiểu nhiều, nhưng có cảm tưởng mình giống triết gia, khi chép kèm vài câu danh ngôn đao to, búa lớn trong những tập thơ. Câu nói này có lẽ đúng với phần lớn nhân loại. Riêng nàng, trái tim nàng cũng có nhiều lý lẽ. Nhưng lý lẽ nào cũng phải được lý trí hiểu, kiểm soát và chấp nhận. Nàng thấy mình khổ sở, lúng túng với những suy nghĩ phức tạp, đối nghịch trong đầu.

 

Lắm khi nàng đưa ra những giả thuyết thật ngờ nghệch. Nghe nhỏ bạn viết rằng, thương nàng lắm. Nàng cảm động. Phải chi, nghe “ai đó” nói thương, nàng cũng được phép cảm động mà không cần phải day dứt. Phải chi, nàng có thể nói, viết được tiếng lòng cho “ai đó”, cũng dễ dàng, như khi viết cho nhỏ bạn thân. Chao ôi, đời yên bình biết mấy. Nghe mấy giả thuyết “dở hơi” của nàng, nhỏ bạn cười khật khừ: “Mày chắc bị chạm dây rồi.”

 

Nàng bắt gặp bài thơ về hiến chương tình yêu:

khi em đọc, tôi biến thành chữ viết

cả nghìn chương, chỉ chép chuyện đôi ta

mỗi đầu dòng: tên em sắp chữ hoa

cả chấm, hỏi, cũng đậm mùi hạnh phúc

Nàng nghĩ đơn giản, mình đọc bài thơ hay, sao không phổ biến cho bạn bè biết. Nàng nhắc với anh bài thơ. Anh bảo, anh không biết. Nàng hứa, sẽ chép cho anh. Anh lắc đầu, nếu chỉ chép, anh vào internet, copy & paste là xong. Anh chỉ thích được tặng thôi. Nàng than thầm, ôi, ai nói nàng khôn lanh. Bao lâu nay nàng đinh ninh như vậy. Thiệt ra, nàng... ngu triền miên.

 

Nàng như đứa bé trong sân chơi, đang vui với nhảy dây, đi chợ, về chợ... Trò chơi càng lúc càng hấp dẫn, hào hứng. Tiếng trống báo hiệu hết giờ chơi đã điểm. Phải trở về lớp học. Đứa bé là học trò ngoan. Đứa bé không muốn và không dám phiền lòng người lớn. Nàng nghĩ hoài, không biết trách ai. Không lẽ trách mấy ông, mấy bà phát minh ra liên mạng, điện thư. Anh tỉnh bơ, thiên la địa võng.

 

Tính nàng ưa cải số. Có lúc chủ ý, có lúc tình cờ. Hồi mới lớn, có người tiên đoán ta e em sớm sầu. Nàng đã chứng minh rằng, mình không sớm sầu. Nhưng bây giờ, nàng không biết phải làm gì, để mình đừng muộn sầu. Hay, nàng giống như Quách Tương, phải tìm thiền sư Giác Viễn, hỏi làm sao nhược ly ư ái giả, vô ưu diệc vô bố. Nàng phải chờ đọc xong bộ truyện Ỷ Thiên Đồ Long Ký, để biết, rồi Quách Tương có được câu trả lời hay không. Nếu có, chắc nàng sẽ thử áp dụng cho trường hợp do ái cố sinh ưu, do ái cố sinh bố của thế kỷ 21.

 

Nàng đã bao lần buộc thượng đế phải gật gù, “Ta theo ý con. You have it your way.” Nhưng trận này, như anh đã lì, nói với nàng rằng, tránh sao khỏi số. Hay là, nàng sẽ thưa với thượng đế rằng, “Con theo ý Ngài. Thy will be done.”

 

Hoàng Quân

 

Những câu thơ in nghiêng trích trong các bài thơ:

Tình Già của thi sĩ Phan Khôi;

Tuổi Mười Ba của thi sĩ Nguyên Sa;

hiến chương tình yêu ngày 14– 2 của thi sĩ Du Tử Lê.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.