Hôm nay,  

Chuyện Tết xưa, Tết nay...

1/18/202317:42:00(View: 4487)

Tùy bút ngày Xuân

tet

Xin thưa trước với độc giả, như là giới hạn không gian và thời gian bài viết: Tết xưa là Tết của MNVN thập niên 60, 1975. Tết nay: Tết của người Việt hải ngoại và trong nước.

 

Lên trung học đệ nhất cấp, cấp 2 bây giờ, tôi xuống quận học trường Trung học Quế Sơn cách nhà chừng 7km. Mười lăm tuổi rời quê theo gia đình ra phố “tỵ nạn cộng sản”. Kỷ niệm về Tết xưa luôn gắn bó suốt hành trình làm người của mình cho đến bây giờ khi đã bước vào độ tuổi trên 70. Tết ở quê tôi ngày xưa, dù là làng quê nghèo nhưng việc chuẩn bị diễn ra rộn ràng từ đầu tháng Chạp Âm lịch khi thời tiết bắt đầu có mưa phùn và trời lành lạnh. Vài gia đình bắt đầu giẫy mả (tảo mộ), không rầm rộ và đồng loạt nhưng đây là việc làm mang tính truyền thống của ý thức nhớ ơn tổ tiên và mỗi gia đình/tộc họ có ngày riêng. Giẫy mả xong về nhà cúng tạ, quê tôi thường cúng bánh xèo hoặc mì Quảng từ bột xay bằng gạo lúa mới vừa thu sau vụ mùa tháng 10. Sau đó là lo đánh gốc tre phơi khô làm chất đốt nấu bánh tổ, bánh tét.

 

Những nhà “có của” dùng cả “ảng” (1) to giã lá bứa (2) pha nước lạnh để ngâm toàn bộ đồ khí tự trên gian thờ, ba ngày sau giã nát than lau chùi rồi phơi nắng. Việc tiếp theo là cắt bờ rào chè tàu trước nhà, giẫy cỏ lối đi, riêng nhà tôi thì cha tôi còn lấy phong pháo Điện Quang đem treo trên giàn bếp hoặc phơi trên nhánh dâu trước nhà để pháo nổ giòn khi đốt. Gạo, nếp, rau quả có sẵn trong nhà và vườn nhà, có gia đình còn tát ao bắt cá chứa sẵn trong thạp để dùng dần vì có lẽ người dân nặng lòng với câu tục ngữ “Sống sao thác vậy” nên mâm cúng Tết thường đầy đủ các món mà ông bà khi sinh thời ưa thích. Quê tôi xa chợ nên thịt heo thường mua của những “ông hàng phiên”, họ rủ nhau xẻ thịt heo gánh đi bán từng nhà. Có nhà còn chung nhau với hàng xóm và dù giàu hay nghèo, mỗi nhà đều mua thịt Tết từ 5-10kg. Không có tủ lạnh nên họ thường sơ chế rồi cất dùng dần. Ngày Tết là dịp để dân quê ăn bù khi cả năm thiếu thốn. Do vậy mới có câu ca dao: “Có đói cũng ba bữa Tết/ Có hết cũng ba bữa mùa”.

 

Càng gần đến ngày, nhà cửa làng xóm phong quang thoáng đãng, lòng người càng nôn nao rạo rực hơn và mong sớm đến ngày nhất là lũ trẻ con. Chúng mong được cha mẹ đi chợ mua về các thứ đồ chơi như “lung tung”, “gà oác”, pháo hoa cải (3). Chúng mong đến sáng mồng một được diện áo quần mới đi chúc Tết bề trên trong họ hàng và thực tế, còn mong được ăn no, ăn ngon, thỏa thích vui chơi kể cả đi lượm pháo lép ở các nhà giàu mà không sợ quở mắng.

 

Tết ngày xưa ở quê thường tập trung nhiều nhất vào việc cúng kính và thăm viếng họ hàng. Do đó, chuẩn bị bàn thờ, mâm cúng luôn tươm tất. Thường thì cúng rước ông bà về ăn Tết cùng con cháu vào chiều 30, cúng Trời Đất còn gọi là hành khiển vào giao thừa, cúng chính vào sáng mồng một, cúng sáng, trưa, tối cho đến chiều mồng ba thì cúng đưa. Nhiều địa phương phía Nam còn có tục lệ đi thắp nhang mộ phần tổ tiên nếu tập trung vào một nơi hoặc thắp nhang mộ những người thân gần nhất. Ngoài cúng trong nhà còn có mâm cúng ngoài trời mời âm hồn, cô hồn, các vong linh tiền khuất. Sau ba ngày: “Mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồng ba Tết thầy” thì được quyền vui chơi thỏa thích, coi hát bội, đánh bài chòi, thăm viếng bè bạn, v.v…

 

Sau 1975, miền Nam Việt Nam đổi chủ, phần thì ruộng đất tập trung vào hợp tác xã, phần thì chống duy tâm, phần khác thì kinh tế hoạch định, dân càng nghèo đi nên xã hội kéo theo nhiều đổi thay. Tuy vậy, người dân vẫn đón Tết dù không bằng ngày trước. Một hiện tượng phổ biến là trong những năm “bao cấp”, lượng đèn nhang, vàng mã sản xuất và bán ra trên thị trường tăng nhiều. Có lẽ do khi con người không dựa vào sức mình để vươn lên thì họ nhờ đến... thần thánh! Đến Tết, cán bộ có tem phiếu ra cửa hàng mua thịt, thường dân thì hợp tác xã nào có điều kiện mổ heo phân phối cho các hộ gia đình với số lượng tượng trưng, mỗi gia đình tự lo liệu, mua sắm các thứ là chính. Việc đi chúc Tết vẫn duy trì nhưng không còn vui vẻ như trước. Trên đường làng không còn thấy nhiều màu sắc áo quần, không thấy những em bé tung tăng theo người lớn đi chúc Tết. Phải gần đến 15 năm sau, nhờ đổi mới, nhờ kinh tế thị trường, nhờ xoá bỏ kinh tế tập trung nên xã hội mới thay đổi dần dà.

 

Cũng sau 1975, người Việt bỏ đất nước vượt biên ngày càng đông và hình thành cộng đồng tỵ nạn xa xứ, những cộng đồng này có mặt ở cả Mỹ lẫn Châu Âu, số lượng nhiều hay ít phụ thuộc vào việc sắp xếp định cư của chính quyền sở tại. Điều đáng nói là dù thế nào, đến ngày Tết cổ truyền dân tộc, người Việt cũng tổ chức đón Tết như là để con cháu nhớ đến ông bà dù Âu Mỹ chỉ đón Giáng Sinh và Tết Dương lịch, ngày Tết Việt vẫn phải đi làm. Miền Nam California có lẽ là nơi đông người Việt cư trú nhất, ở đó có quận Cam (Orange County), có khu Phước Lộc Thọ là nơi nhiều năm trước, mỗi lần Tết đến, người Việt tổ chức 3 khu chợ, bán sản vật của 3 miền: Chợ Đồng Xuân, chợ Đông Ba và chợ Bến Thành. Các chợ Việt Nam trên khắp nước Mỹ bán bánh mứt từ tháng 11 âm lịch, từ giữa tháng chạp bán bánh chưng bánh tét, dưa hành, kiệu. Điểm đặc biệt là tại trụ sở các cộng đoàn người Việt ở Mỹ làm lễ thượng kỳ VNCH vào ngày đầu năm và cũng không quên các họp mặt chúc Tết vào dịp tất niên lẫn tân niên. Các chợ Việt Nam ở nhiều tiểu bang nước Mỹ cũng thường đốt các dây pháo dài, năm nào cũng có các đoàn lân đi múa ở các chợ, chùa chiền và nhà thờ có người Việt sinh hoạt.

 

Tất cả việc làm này cũng là cách lưu giữ truyền thống, nhắc nhở con cháu nhớ về Đất Mẹ, tổ tiên, Ông Bà, đã an ủi rất nhiều cho những người tỵ nạn lớn tuổi nhớ quê. Hy vọng những việc làm này sẽ được truyền tụng qua nhiều thế hệ sau này để con cháu không quên nguồn cội và biết làm gì khi sau này lớn lên trên đất khách mà họ đã chọn làm quê hương.

 

Khi Internet du nhập vào Việt Nam, khi kinh tế ngày càng khá dần lên do chính sách kinh tế của nhà nước, do nguồn kiều hối của thân nhân từ ngoại quốc gửi về, do các nguồn vốn ODA của thế giới đổ vào Việt Nam, người Việt trong nước đón Tết khá dần lên, tươm tất hơn nhưng cũng kéo theo nhiều thay đổi. Từ thành phố đến thôn quê, ở đâu cũng mất dần không khí rạo rực chuẩn bị Tết. Chỉ cần ngày 30, dạo một vòng chợ (ở quê) hay một vòng siêu thị (ở phố) đã có thể sắm các món cúng, món ăn, món tiếp khách đầy đủ! Cảnh cả nhà lo vuốt nếp, ướp thịt, hong đậu xanh, lau lá, quay quần gói bánh chưng bánh tét và đặc biệt, ngồi chụm lửa, thay nước canh nồi bánh suốt đêm nay chỉ còn rải rác ở một ít nhà. Đèn, nhang, nến cũng không còn chuẩn bị như xưa vì đa số đã thay bằng đồ điện thậm chí khi pháo bị cấm, người ta mua pháo điện về cắm điện và bật công tắc cho nổ!

 

Tết sau này, nổi bật ở khắp nơi vẫn là hoa, lan, cây cảnh, trái cây. Đó là đào miền Bắc, mai vàng miền Nam, cúc, vạn thọ, thược dược, trạng nguyên, mãn đình hồng. Cũng có nhiều chậu kim quất (tắc). Trái cây trong nước thì ít nhưng nhập tiểu ngạch từ biên giới Bắc thì nhiều. Vì phải xử lý thuốc bảo quản nên có nhà khi trưng bàn thờ chưa hết ba ngày Tết đã thúi bủn! Người Việt trong nước không hiểu có phải cả năm không có tiền hay sao mà đợi đến cuối năm mới mua sắm những thứ cần dùng trong suốt năm. Chính việc này tạo ra cái khung cảnh rộn ràng, tất bật khác ngày thường. Cũng có rất nhiều người bận rộn buôn bán, mãi đến ngày ba mươi mới đi mua sắm và cũng không ít người đợi “quét chợ cuối năm”, đợi khi người bán không thể bán được nữa thì ép giá để mua rẻ. Thương cho những người từ miền Trung vào tận miền Tây hoặc lên Đà Lạt mua hoa đem về bán, chỉ bán được ít ngày, ngày chót ế ẩm phải vất bỏ cả xe tải!

 

Việc chiêu đãi người đến nhà thăm và chúc Tết ngày xưa khá trọng thể và linh đình. Hầu như người ta mời nhau tất cả những món mình sắm sửa nhưng sau này, đến thăm là lễ nghĩa, là xã giao, là đáp lễ, là nịnh nọt kiếm điểm của nhân viên đối với cấp trên với phong bì đỏ lì xì cho con cái hay cha mẹ chủ nhà nhiều hơn số tiền mừng tuổi (cho vui) như thông tục ngày xưa. Khách đến nhà không ung dung trò chuyện mà đến nơi, việc đầu tiên là xin phép chủ nhà thắp nhang bàn thờ, sau đó, có người uống vội ly nước trà, nói vài câu chúc Tết rồi đi, cho đủ nơi cần đến!

 

Điều đáng trân trọng và ghi nhận là ý thức giữ gìn phong tục của người Việt, chăm sóc cho thân nhân cao tuổi để họ vui trong ngày Tết, cúng kính trang trọng để làm gương cho con cháu bất kể nhà giàu hay nghèo, bất kể mấy ngày sau có thể tham gia nhiều canh bạc ăn thua tiền triệu. Chính vì điều này, Tết Việt Nam còn là dịp để đoàn tụ gia đình, dù khó khăn cách mấy, mỗi cuối năm, người đi làm ăn xa cũng tìm cách về nhà, kể cả dắt díu vợ con về quê xa cả ngàn cây số, lại phải săn lùng mua vé, kể cả vé chợ đen hoặc bị mất tiền do mua phải vé lừa của bọn bán vé giả!

 

Nhiều năm trước, đã có nhiều ý kiến nên bỏ ngày Tết Nguyên Đán mà cả nước nên tổ chức ăn Tết theo Tây lịch. Điều này sẽ có lợi cho hành chánh và công việc kinh doanh, phù hợp với thời kỳ hội nhập Quốc tế nhưng bàn đi tính lại rồi vẫn không thay đổi. Chưa biết việc này lợi-hại, hay-dở thế nào nhưng theo thiển ý của người viết, cần phải giữ lại ngày Tết cổ truyền. Qua một năm vất vả, bận rộn làm ăn, cuối năm có dịp nghỉ ngơi, nhìn lại mình, nhìn lại điều đã làm, điều chưa làm được từ làm ăn đến đối nhân xử thế và nếu có ý thức, sẽ biết định hướng cho năm sau. Tết cũng là dịp để người làm ăn không hanh thông năm trước, hy vọng và tin tưởng ở năm sau, nhất là những người tin vào vận hạn, bói toán.

 

– Nguyễn Hoàng Quý

 

(1)  Ảng là dụng cụ chứa nước ở quê làm bằng cát và xi măng có dung tích từ 60-400 lít.

(2)  Lá bứa là lá của một loài cây thân gỗ, có vị chua, ngâm nước sẽ cho mội trường acid làm chất tẩy rửa.

(3)  Lung tung là một loại trống có vành tre, dán giấy màu, cắm cây bằng chiếc đũa ở giữa, khi dùng hai bàn tay lăn qua lăn lại cây, hai sợi chỉ gắn hạt đất sét khô sẽ tạo ra âm thanh như tiếng trống. Gà oác là một loại tò he tô màu lòe loẹt, thổi tạo ra tiếng. Pháo hoa cải làm bằng giấy quyến mỏng phủ màu, giữa rải thuốc pháo, ban đêm đốt và quay sẽ bắn ra tia lửa như hoa cải.

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.