Hôm nay,  

Trang Thơ Tháng Tư

19/04/202317:09:00(Xem: 2801)

Ukraine_pic

THY AN

 

Tháng tư và những nỗi buồn

 

ngoi lên từ hầm trú bom

giật mình ngơ ngác

lâu lắm chưa thấy hướng dương bên cửa

hoa tơi tả như lá cờ Ukraine xanh vàng

chẳng thấy ánh mặt trời

tháp chuông tan nát

khát khao nắng mùa xuân đỉnh ngọn

chiều mưa có tóc em bay

ta ngồi đây run tay cầm súng

làm sao không thể run tay

khi ta chưa bao giờ cầm súng

ngày cũ, ngày mới đều viết bằng máu và nước mắt

của bạn bè ra đi không trở lại

thương quê hương khổ ải đọa đày

người đàn bà sang Bruxelles tỵ nạn

mỗi đêm thương nhớ chồng con

‘tôi cám ơn nước Bỉ đã cưu mang

để chồng con tôi ở lại vững lòng chiến đấu

tôi xin nguyện sẽ không làm phiền quý vị

cầu Trời ban bình an

cho tôi sớm trở về

dù quê hương đổ nát điêu tàn’

 

tháng tư nỗi buồn trầm tích Việt Nam

biển rộng sông dài

một trời ký ức mênh mang sương khói

một thời để nhớ

và một thời để quên

nhìn thế giới tràn lan biến động

Âu, Á, Trung Đông

Thái Bình Dương, Hắc Hải

Bắc Hàn, Đài Loan

hỏa tiễn, chiến xa, hàng không mẫu hạm

còn nơi nào bình yên

cho ta hái đóa mộc lan màu hồng

tặng những người yêu nhau

trên quê hương khốn khó

nhắc nhau những mùa tang thương đẫm lệ

và đi lên đồi xanh

cúi đầu trên mộ những người đã nằm xuống

để ta sống yên lành...

 

ôi những con đường nhân duyên thầm lặng

viễn xứ quê người

bao la trong ta…

 

 

– thy an


*** 

phu-ninh-lake-the-beautiful-ink-picture (1) 

TRẦN YÊN HÒA

 

Gởi cô gái Tam Kỳ, đất khổ

 

Em lớn lên theo những vồng khoai

vồng khoai lang chảy dài cồn cát

cái nóng se khô, cơn mưa dứt hạt

em le te đội nón qua cầu

 

Em đạp xe đi học trường làng

mẹ gắng cho em kiếm ba mớ chữ

cắn chữ làm đôi đọc thư tình anh gởi

cái nghĩa yêu đương mù mịt quá chừng

 

Rồi mười lăm tuổi lên trung học

khung trời thị xã, cổng trường vôi

áo dài như bướm bay phất phới

em mang theo hồn anh đi đâu?

 

Cô nữ sinh quê lên tỉnh học

rất đẹp như trời buổi chớm thu

cái hồn nhiên cùng màu lụa trắng

làm anh xao động giữa sa mù

 

Tình ta như vồng khoai trên cát

bát ngát là hoa tụ với cành

bát ngát lòng anh muôn cánh hạc

giữa trời thị xã rộng thênh thang

 

Rồi chiến tranh chia biệt con người

em giạt về đâu anh chẳng biết

cuộc tình ta chưa lời chia biệt

mà em xa ngút mắt anh rồi

 

Cuộc chiến tranh như loài bạch tuộc

cuốn trôi anh, lên thác, xuống ghềnh

cuốn trôi em, rạc rài, hun hút

cô gái Tam Kỳ, đất khổ lênh đênh

 

Thời gian... mười năm, hai mươi năm

ơi thời gian vô tình quá đỗi

anh gặp lại em ngày Tam Kỳ gió nổi

cái nóng khô ran như đôi mắt em chừ

 

Đôi mắt em xưa là một dòng sông

có bóng dáng anh lung linh trong đó

đôi mắt em nay như cánh buồm đen

cô gái Tam Kỳ, suốt đời nhỏ lệ

 

Thời gian qua... đã mấy mươi năm

nhánh sông tuổi thơ vẫn còn chảy mãi

Tam Kỳ và ta một thời thơ dại

đốt đuốc tìm hoài cái thuở mười lăm

 

Đốt đuốc soi cái chỗ em nằm

và soi lại ta vùng thơ ấu cũ

thương quá em ơi anh không đủ chữ

giảng nghĩa giùm anh cái chữ ân tình

 

Cô gái Tam Kỳ, đất khổ của anh

bây giờ ra răng, muôn đời rứa hỉ.

   

 

Một thuở Tam Kỳ

 

Hồn rất lạ giữa bến bờ mông quạnh

ngày đi qua miền viễn xứ long đong

có một chút nắng vàng trong cốc lạnh

mùa xuân xưa còn vọng tuổi thơ hồng

 

Có một dạo em ngồi hong tóc ướt

áo vàng bay chiều lạc lối đi về

nghe tim gọi từng đêm lòng thổn thức

vết son nào còn lại nỗi si mê

 

Có một chút lòng em còn để lại

chút hương thơm của một thuở Tam Kỳ

năm tháng ấy còn in mùi hoa dại

áo trắng bay cho lòng ta tình si

 

Một chút nắng một chút mưa một thuở

cõi lòng ta mưa gió tạc ngùi ngùi

em giữ mãi trong lòng ta nỗi nhớ

và mùi hương ngào ngạt mãi khôn nguôi

 

-- Trần Yên Hòa

 

***

Louis_Soutter_Tête_de_face
Tête de face của Louis Soutter (1871-1942).

QUẢNG TÁNH TRẦN CẦM

 

như bạn nói

 

đã có lần tôi nghe bạn nói 

độc đặc  ̶ ̶ ̶ 

(ghép hai từ độc đáođặc biệt

 

nghe xa lạ

nặng nề tựa đao to kề bên cổ

ghê gớm như độc dược nhét vào miệng

chì đun chảy đổ vào mồm

 

dường như tôi gặp lại bạn trong giấc mơ đêm qua

đâu đó chốn đông người

sắc màu độc đặc  ̶ ̶ ̶ 

nếu không là san fran

thì cũng kobe  ̶ ̶ ̶ 

 

và trên dưới bạn vẫn bụi

vẫn cháy rực rỡ

không nuối tiếc 

dù thời gian ủ men ngậm ngùi

 

trên nẻo đường năm tháng 

bước chân khập khiễng nao lòng

thôi thì đáo biệt  ̶ ̶ ̶  tưởng chừng

 

nghe bạn nói  ̶ ̶ ̶  trái tim giờ thì cạn kiệt

chẳng còn máu me gì mẹ nó

trống rỗng rỗng tuếch rỗng toang

 

sáng tạo kiến tạo tái tạo?

đâu là tôn sắt thép xà gồ?  

 

 

rewind

 

nhớ ngày lễ hội

rực đỏ cờ xí biểu ngữ như tuồng hát bộ

chạy trốn sau lưng tượng đài cao ngất

mùi ám ảnh đặc quánh không rời

lan tỏa lượn vòng vèo theo cơn gió nóng

 

u u tiếng hú quanh bờ tường

khàn hơi khản cổ rao giảng bài lạc điệu

trái đất vụng về xoay tới xoay lui

ừ thì muôn năm cái này muôn năm cái nọ

cố lách mình cúi mặt đi qua

 

từng chữ mệt mỏi gõ ra

từng chữ lọt thỏm vào hư không

đau đáu nỗi buồn kho quẹt

chờ tiếng kẻng báo tin cởi trói

 

nhớ nụ cười nàng đóng khung trên vách

bên kim đồng hồ chết đứng sau cơn bão đầu đông

vẫn nghe tiếng gió gào thét từ đêm mưa lạnh

tru tréo xin trở lại giấc mơ hôm nào

 

như phản xạ

nàng nhấn nút rewind về phút định mệnh

cố gắng bôi xóa dấu vết những ngày qua  ̶ ̶ ̶ 

và hôm nay đột nhiên tan chảy không ngừng nghỉ. 

 

-- Quảng Tánh Trần Cầm

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.