Hôm nay,  

Asean Xế Chiều

28/07/200500:00:00(Xem: 5911)
Các nước Đông Nam Á thường nghĩ rằng mình khôn. Lần này có khi lại khốn.
Đầu tháng Bảy, khi bộ Ngoại giao Mỹ cho biết là Ngoại trưởng Condoleezza Rice sẽ không dự Hội nghị cấp Bộ trưởng năm nay của Diễn đàn An ninh cấp vùng của tổ chức ASEAN (gọi tắt là ARF - ASEAN Regional Forum), giới lãnh đạo Đông Nam Á lập tức than phiền. Rằng Hoa Kỳ đã lấy một quyết định bất lợi khi không có mặt tại một diễn đàn quan trọng như vậy. Các nguồn tin khác, kể cả Hà Nội, đều vồ lấy lý luận này và thổi lên một phong trào đả kích Mỹ - như mọi khi.
Vài tuần sau, vào Thứ Tư 27, người ta bỗng tự hỏi, rằng Ngoại trưởng Condi Rice có thiên lý nhãn hay chăng mà lại đi bước đầu… ra ngoài như vậy.
Lý do là Ngoại trưởng Trung Quốc Lý Triệu Tinh cũng loan báo rằng mình sẽ không tham dự Hội nghị ARF vào ngày 29 này. Ông Tinh này rất tinh, vì sau bà Rice, cả Ngoại trưởng Nobutaka Machimura của Nhật Bản lẫn Ngoại trưởng Natwar Singh của Ấn Độ cũng đều không tới Vientiane phó hội. Diễn đàn ARF ế ẩm như cảnh chợ chiều.
Các nhà bình luận Á Châu đã bình lộn, khi nêu nguyên do vấn đề Diễn đàn ARF ở truyện ngoài da, là chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện. Hãy nói về truyện ngoài da ấy, trước khi trở lại chuyện an ninh Á châu.
Tổ chức ASEAN gồm 10 nước Đông Nam Á là Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Singapore, Brunei, Việt Nam, Lào, Cambốt và Miến Điện. Bốn nước sau cùng là bốn nước nghèo nhất, chạy theo ASEAN khi con tầu thịnh vượng Đông Nam Á đã chuyển bánh từ mấy chục năm trước. Nghèo và độc tài lạc hậu nhất chính là Miến Điện, hoặc gọi theo tên mới của chế độ quân phiệt là Myanmar. Hàng năm, các nước chọn một chủ tịch luân phiên và năm tới, Miến Điện sẽ lãnh ghế chủ tịch. Điều ấy làm ASEAN bối rối không ít vì gây khó chịu cho các nước dân chủ, đặc biệt là Liên hiệp Âu châu và Hoa Kỳ.
Chỉ là một câu lạc bộ của các nước muốn làm ăn với nhau theo tư bản chủ nghĩa - mà lại sợ từ "tư bản" và ngụy trang dưới tên "kinh tế tự do" hay "kinh tế thị trường" - ASEAN còn ngụy biện đề ra một nguyên tắc là "không xen lấn vào nội bộ của nhau". Nghĩa là láng giềng có độc tài hoặc gây chuyện độc hại cho dân chúng - và cho cả lân bang nữa, thí dụ như hủy diệt môi sinh - thì các hội viên ASEAN cũng tránh không đả kích. Đó là nguyên tắc "đèn nhà nào nhà ấy rạng, mạng người nào người ấy giữ". Vì vậy, họ hồn nhiên mời Miến Điện tham dự câu lạc bộ kinh tế này.
Nhưng, thế giới ngày nay đã văn minh hơn nên hết thích làm ăn với các chế độ bóc lột lao động hay đàn áp nhân quyền và gây khó cho ASEAN về nạn độc tài Miến Điện: bầu cử thua mà không chuyển quyền, lại còn bỏ tù đối lập và giam hãm bà Aung San Suu Kyi là điều khó chấp nhận. Vì vậy, ASEAN đành kín đáo "can thiệp nội bộ" Miến Điện, thuyết phục chế độ Ngưỡng Quang (Rangoon) là từ chối vai chủ tịch năm tới để khỏi gây lúng túng cho ASEAN. Hôm Thứ Ba, Ngưỡng Quang giúp ASEAN thở ra nhẹ nhõm khi loan báo quyết định trên!
Giải quyết xong cái truyện ngoài da này rồi, ASEAN tưởng rằng các đại cường sẽ vui vẻ tham dự hội nghị của Diễn đàn An ninh. Lầm to. Vấn đề không nằm ở đấy.
Ngoại trưởng Bắc Kinh có đến Vientiane tham dự Hội nghị cấp Bộ trưởng của ASEAN nhưng sau đó, thay vì ở lại tham dự hội nghị của ARF thì lại qua thăm Miến Điện. Đồng hội đồng thuyền, họ nề hà gì chuyện độc tài của Miến!
Trở lại chuyện an ninh của Diễn đàn An ninh ARF.
Là câu lạc bộ giao dịch kinh tế, các nước Đông Nam Á đã tưởng bở, rằng nhờ sức mạnh kinh tế ASEAN sẽ thành một trung tâm có trọng lượng của Á châu. Họ nói đến việc hợp tác mở rộng và cuối năm 1999 đề xướng ra khuôn khổ ASEAN+3, gồm 10 nước ASEAN và ba nước Đông Á, là Nhật Bản, Trung Quốc và Bắc Hàn. Tưởng mình đã to bằng con bò, vài nước còn muốn lập ra một định chế mới, hoàn toàn Á châu, để thay thế vai trò của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF. Đó là sáng kiến về Quỹ Tiền tệ Á châu AMF của Malaysia thời Mohamad Mahathir làm Thủ tướng. Lý do bên ngoài là để ngăn ngừa một vụ khủng hoảng tài chánh khác, như đã xảy ra năm 1997 làm Thái Lan, Indonesia, Philippines và Malaysia đều khốn đốn. Lý do thực tế là ASEAN muốn trở thành một diễn đàn quốc tế nằm tại tâm điểm châu Á.

Bước qua lãnh vực an ninh, ASEAN lập ra cơ chế ARF, thực chất chỉ là một diễn đàn trao đổi thông tin về an ninh và quân sự, và các chế độ độc tài thì hiểu ngay "thông tin chính là tuyên truyền". Diễn đàn ARF vì vậy chỉ là một diễn đàn bốc phét không có thực lực, chẳng có khả năng cưỡng hành và không giải quyết nổi các vấn đề về an ninh trong khu vực.
Hẹp thì có vụ Indonesia đòi thôn tính Đông Timor khiến Australia nhập cuộc và gây hiềm khích với Jakarta; rộng thì có nạn hải tặc ngoài Đông Á và nhất là tại eo biển Malacca, mà chẳng xứ nào đề ra giải pháp thỏa đáng và ARF bình thản im tiếng. Gần thì có tranh chấp về chủ quyền trên các vùng quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa, kể cả tranh chấp về các giếng dầu giữa Indonesia và Malaysia; xa thì có vụ võ khí nguyên tử của Bắc Hàn hoặc việc Trung Quốc đòi thống hợp Đài Loan bằng võ lực. Rộng lớn hơn cả và bao trùm trên mọi chuyện là nạn khủng bố của các lực lượng Hồi giáo quá khích đang tung hoành tại miền Nam Thái Lan hay Philippines và đã từng ra tay tại Bali của Indonesia. Lâu dài và đáng ngại hơn cả là sự lớn mạnh đầy đe dọa của Trung Quốc.
Kết hợp cả hai chuyện an ninh và kinh tế, thí dụ nhục nhã nhất là các nước ASEAN không tổ chức nổi một hệ thống cảnh báo về động đất và sóng thần, vì ỷ lại vào Hoa Kỳ và Nhật Bản. Họ dư tiền xây cao ốc cao nhất thế giới, nhưng không bỏ tiền mua ổ khóa hay hệ thống báo động. Đó là sự khôn ngoan Á châu.
Các con rồng cọp kinh tế Đông Nam Á chỉ là cọp rơm hổ giấy về những vấn đề an ninh sinh tử cho toàn khu vực và diễn đàn ARF chỉ là cái loa rè.
Chúng ta không chủ quan hay thành kiến mà cho rằng Đông Nam Á chẳng biết lo xa. Họ lo xa theo kiểu khôn ngoan châu Á.
Dư luận lãnh đạo Đông Nam Á luôn luôn có thói quen đả kích Hoa Kỳ và từ 10 năm nay còn ve vãn Trung Quốc. Với họ, Trung Quốc là thị trường béo bở và Bắc Kinh là một tập thể lãnh đạo có thể nói chuyện phải quấy được, theo kiểu phong bì Á châu. Với họ, Hoa Kỳ là tấm giáp hộ thân, nhưng đeo lên mình thì nguy hiểm. Sự khôn ngoan Á châu của các lãnh tụ Đông Nam Á, trừ một ngoại lệ ở Singapore, là kiếm tiền nhờ Trung Quốc, nhưng mua bảo hiểm từ Hoa Kỳ. Quốc gia nào cũng nói theo một giọng - theo giai điệu Bắc Kinh - rằng Á châu là của người Á, và đề cao chủ nghĩa quốc gia của mình trên lưng nước Mỹ. Đến khi Hoa Kỳ rút khỏi hai căn cứ quân sự tại Philippines là Clark Field và Subic Bay - cũng do chủ nghĩa quốc gia nửa mùa của Manila - các nước lại la hoảng rằng Hoa Kỳ để lại một khoảng trống nguy hiểm tại Á châu Thái bình dương. Trong hội nghị ARF năm nay, ASEAN có tham vọng lập ra một Thượng đỉnh Đông Á (East Asian Summit - EAS) quy tụ lãnh đạo các nước Á châu, kể cả Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, nhưng lại không có Hoa Kỳ, vì Á châu vốn của người Á mà.
Vì vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi Ngoại trưởng Condi Rice không phó hội ARF và cũng chẳng ngạc nhiên khi lãnh đạo Đông Nam Á than phiền về quyết định ấy của bà Rice vì để một khoảng trống trên mặt an ninh Đông Á. Có lẽ, bà chỉ muốn Á châu trưởng thành và cư xử như người lớn, tức là phải trả giá cho những mục tiêu hay mơ ước của mình. Thượng đỉnh EAS vì vậy là trò sơ sinh yểu tử.
Chúng ta không ngạc nhiên về những chuyện ấy từ phía Hoa Kỳ, nhưng e ngại.
Vì người Việt Nam hiểu rằng Trung Quốc đang bẻ đũa từng chiếc tại Đông Nam Á, ve vãn từng nước qua các thỏa ước song phương để phá vỡ cái thế đoàn kết Đông Nam Á, mục tiêu nguyên thủy của ASEAN vào năm 1967, khi miền Nam Việt Nam còn ở trên tuyến đầu ngăn ngừa sự bành trướng của Trung Quốc. Có hai điển hình cho việc ấy: trong lục địa thì sông Mekong đang bị họ khai thác tàn tệ, bất kể đến hậu quả cho 60 triệu dân sống tại hạ nguồn; ngoài khơi là vụ khai thác dầu khí trên vùng quần đảo Trường Sa mà Việt Nam và Philipppines đều nhận là của mình, đều bị Bắc Kinh phũ tay chơi bạo và sau cùng đều phải hợp tác với doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc, như Phan Văn Khải đã xác nhận với Ôn Gia Bảo tại Côn Minh!
Trung Quốc coi vùng biển Đông Á là ao nhà, là "biển Trung Hoa tại miền Nam" (Trung Nam hải), và các nước Đông Nam Á là chư hầu trong tương lai. Diễn đàn ARF vì vậy chỉ là tái diễn chuyện nước Tề thời Chiến Quốc - một xứ buôn bán duyên hải như câu lạc bộ ASEAN ngày nay - đã lập diễn đàn thảo luận với cường Tần. Và sau cùng vẫn bị Tần Thủy Hoàng Đế thôn tính trong trò chơi "gồm thâu lục quốc".
Khôn mà thành khốn là như vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 2025 là một năm sôi động của khoa học, khi những bước tiến lớn đã được thực hiện trong nhiều lĩnh vực, từ y học, thiên văn, khảo cổ đến công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Những phát hiện và sự kiện này không chỉ mở rộng hiểu biết của con người về thế giới, mà còn đặt ra nhiều câu hỏi mới, thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ trong tương lai.
Ở Hoa Kỳ, khoa học xưa nay hiếm khi giành hàng tít lớn trên báo, cho dù ngân sách nghiên cứu suốt nhiều thập niên vẫn vững vàng qua mọi triều tổng thống như một thứ “quốc ước bất thành văn” về tri thức thuần túy. Năm 2025, khúc quân hành êm ả đó bỗng khựng lại: chính quyền Donald Trump, trở lại Nhà Trắng với nghị trình cải tổ khoa học và kỹ nghệ theo hướng ý thức hệ, đã kéo chính sách khoa học từ trang trong ra thẳng trang nhất.
Thuế quan — thứ từng vắng bóng trên mặt báo suốt nhiều thập niên — nay trở lại trung tâm chính sách kinh tế Hoa Kỳ, trong lúc Tối Cao Pháp Viện đang xét tính hợp hiến của các mức thuế toàn cầu do Tổng thống Donald Trump ban hành. Bài viết dưới đây, theo phân tích của Kent Jones, giáo sư kinh tế danh dự Đại học Babson, đăng trên The Conversation ngày 11 tháng 12 năm 2025, nhằm giải thích cặn kẽ thuế quan là gì, ai thực sự gánh chịu, và vì sao vấn đề này đang tác động trực tiếp đến túi tiền và tương lai kinh tế nước Mỹ. Thuế quan, nói gọn, là thuế đánh lên hàng hóa nhập cảng. Khi một công ty Hoa Kỳ nhập hàng từ nước ngoài, Cơ quan Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ sẽ gửi hóa đơn thuế; doanh nghiệp phải nộp đủ thì hàng mới được thông quan. Trên giấy tờ, người trả thuế là nhà nhập cảng. Nhưng trên thực tế, phần lớn chi phí ấy được chuyển thẳng sang người tiêu dùng qua giá bán cao hơn — từ thực phẩm, xe cộ cho đến quà tặng cuối năm.
Vào những ngày cuối tháng Tám của năm 2025, tôi cùng hai đồng nghiệp đã quyết định từ bỏ chức vụ tại Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC). Chúng tôi ra đi vì không thể tiếp tục im lặng khi chứng kiến tính liêm chính khoa học ngày một xói mòn, còn cơ sở hạ tầng y tế công cộng của quốc gia cứ dần rệu rã dưới sự lãnh đạo của Robert F. Kennedy Jr., Bộ trưởng Bộ Y tế và Nhân sinh (HHS). Khi đó, chúng tôi đã khẩn thiết kêu gọi Quốc Hội, các tổ chức chuyên ngành và các bên liên quan trong lĩnh vực y tế công cộng hãy can thiệp trước khi xảy ra những thiệt hại không thể cứu vãn. Tôi rời đi với niềm tin mọi thứ rồi sẽ được chấn chỉnh.
Khi nhìn bản đồ thế giới và duyệt xét lịch sử hình thành, chúng ta nhận thấy có rất nhiều điểm tương đồng giữa Canada và Úc Đại Lợi.
Người Việt miền Nam từng trải qua một bài học cay đắng: sau 1975, những lời nói về “thống nhất” và “hàn gắn” không bao giờ đi cùng sự nhìn nhận. Không một lời chính thức nào nhắc đến các trại cải tạo, những cuộc tước đoạt, hay những đời sống bị đảo lộn dưới tay những người nhân danh chiến thắng. Không có sự thật, hòa giải chỉ là chiếc khẩu hiệu rỗng. Câu chuyện nước Mỹ hôm nay, khi chính quyền muốn làm mờ các chứng tích về chế độ nô lệ, cho thấy một điều quen thuộc: không quốc gia nào trưởng thành bằng cách giấu đi phần tối. Sự thật không tự biến mất chỉ vì người ta muốn quên.
Hai mươi năm trước, Thống đốc Jeb Bush ký đạo luật “stand your ground” (đứng vững tại chỗ), được giới ủng hộ xem là một biện pháp chống tội phạm dựa trên “lý lẽ thường tình”. Lời hứa khi ấy: bảo vệ người dân tuân thủ pháp luật khi họ dùng vũ lực để tự vệ. Sau vụ George Zimmerman được tha trong cái chết của Trayvon Martin, đồng bảo trợ dự luật, dân biểu Dennis Baxley, vẫn bảo rằng “trao quyền” cho người dân sẽ giúp chặn bạo lực.
“Di sản, còn có thể mang hình thức phi vật thể của lối nghĩ, lối sống, lối hành động, mà con người miền Nam khi xưa đã được trau dồi, hun đúc qua tinh thần của thể chế, của một nền dân chủ hiến định. Chính con người, chính cộng đồng xã hội mới là trung tâm và cũng là cội nguồn lẫn mục đích của mọi bản hiến pháp.” – Hải Sa, “Ngót 60 năm từ một khế ước nhân quyền dang dở,” trang 56 Cùng với tin tạp chí Luật Khoa vừa được đề cử giải thưởng Tự Do Báo Chí năm 2025 của Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, ban chủ trương trong một thư tới độc giả vào cuối tháng 10 đồng thời thông báo việc phát hành ấn bản đặc biệt với chủ đề “70 Năm Việt Nam Cộng Hòa – Chân Dung & Di Sản” gồm 86 trang, với 14 bài vẽ lại hành trình từ ra đời tới bị bức tử của nền dân chủ duy nhất của Việt Nam và di sản của thể chế yểu mệnh này để lại. Bài này nhằm điểm qua nội dung của ấn bản đặc biệt này, và sẽ chú trọng vào một bài đã gợi nơi người viết một suy tư sâu sắc.
Một nhóm sử gia, thủ thư và tình nguyện viên đang gấp rút chạy đua với thời gian – và với chính quyền Trump – để giữ lại những mảnh ký ức của nước Mỹ.Từ hình ảnh người nô lệ bị đánh đập, các trại giam người Mỹ gốc Nhật trong Thế Chiến II, đến những bảng chỉ dẫn về biến đổi khí hậu ở công viên quốc gia, tất cả đều có thể sớm biến mất khỏi tầm mắt công chúng. Trong vài tháng gần đây, hơn một ngàn sáu trăm người – giáo sư, sinh viên, nhà khoa học, thủ thư – đã âm thầm chụp lại từng góc trưng bày, từng bảng giải thích, để lập ra một kho lưu trữ riêng tư. Họ gọi đó là “bản ghi của công dân” – một bộ sưu tập độc lập nhằm bảo tồn những gì đang tồn tại, trước khi bị xoá bỏ bởi lệnh mới của chính quyền.
Hai trăm mười một năm trước, mùa hè năm 1814, quân Anh kéo vào Washington. Trước khi phóng hỏa Bạch Ốc, họ ngồi xuống dùng bữa tại bàn tiệc đã dọn sẵn cho Tổng thống James Madison. Khi bữa ăn kết thúc, lính Anh đốt màn, đốt giường, và tòa nhà bốc cháy suốt đêm. Sáng hôm sau, cơn mưa lớn chỉ còn rửa trôi phần tro tàn của nơi từng là biểu tượng cho nền cộng hòa non trẻ. Tuần này, phần Cánh Đông của Bạch Ốc bị phá sập. Không phải bởi ngoại bang, mà bởi chính quyền tại vị. Và lần này, không ai được báo trước. Người Mỹ chỉ biết chuyện qua những bức ảnh máy xúc cày nát nền nhà, cùng lời xác nhận ngắn ngủi từ các viên chức trong chính phủ.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.