Hôm nay,  

Asean Xế Chiều

28/07/200500:00:00(Xem: 5924)
Các nước Đông Nam Á thường nghĩ rằng mình khôn. Lần này có khi lại khốn.
Đầu tháng Bảy, khi bộ Ngoại giao Mỹ cho biết là Ngoại trưởng Condoleezza Rice sẽ không dự Hội nghị cấp Bộ trưởng năm nay của Diễn đàn An ninh cấp vùng của tổ chức ASEAN (gọi tắt là ARF - ASEAN Regional Forum), giới lãnh đạo Đông Nam Á lập tức than phiền. Rằng Hoa Kỳ đã lấy một quyết định bất lợi khi không có mặt tại một diễn đàn quan trọng như vậy. Các nguồn tin khác, kể cả Hà Nội, đều vồ lấy lý luận này và thổi lên một phong trào đả kích Mỹ - như mọi khi.
Vài tuần sau, vào Thứ Tư 27, người ta bỗng tự hỏi, rằng Ngoại trưởng Condi Rice có thiên lý nhãn hay chăng mà lại đi bước đầu… ra ngoài như vậy.
Lý do là Ngoại trưởng Trung Quốc Lý Triệu Tinh cũng loan báo rằng mình sẽ không tham dự Hội nghị ARF vào ngày 29 này. Ông Tinh này rất tinh, vì sau bà Rice, cả Ngoại trưởng Nobutaka Machimura của Nhật Bản lẫn Ngoại trưởng Natwar Singh của Ấn Độ cũng đều không tới Vientiane phó hội. Diễn đàn ARF ế ẩm như cảnh chợ chiều.
Các nhà bình luận Á Châu đã bình lộn, khi nêu nguyên do vấn đề Diễn đàn ARF ở truyện ngoài da, là chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện. Hãy nói về truyện ngoài da ấy, trước khi trở lại chuyện an ninh Á châu.
Tổ chức ASEAN gồm 10 nước Đông Nam Á là Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Singapore, Brunei, Việt Nam, Lào, Cambốt và Miến Điện. Bốn nước sau cùng là bốn nước nghèo nhất, chạy theo ASEAN khi con tầu thịnh vượng Đông Nam Á đã chuyển bánh từ mấy chục năm trước. Nghèo và độc tài lạc hậu nhất chính là Miến Điện, hoặc gọi theo tên mới của chế độ quân phiệt là Myanmar. Hàng năm, các nước chọn một chủ tịch luân phiên và năm tới, Miến Điện sẽ lãnh ghế chủ tịch. Điều ấy làm ASEAN bối rối không ít vì gây khó chịu cho các nước dân chủ, đặc biệt là Liên hiệp Âu châu và Hoa Kỳ.
Chỉ là một câu lạc bộ của các nước muốn làm ăn với nhau theo tư bản chủ nghĩa - mà lại sợ từ "tư bản" và ngụy trang dưới tên "kinh tế tự do" hay "kinh tế thị trường" - ASEAN còn ngụy biện đề ra một nguyên tắc là "không xen lấn vào nội bộ của nhau". Nghĩa là láng giềng có độc tài hoặc gây chuyện độc hại cho dân chúng - và cho cả lân bang nữa, thí dụ như hủy diệt môi sinh - thì các hội viên ASEAN cũng tránh không đả kích. Đó là nguyên tắc "đèn nhà nào nhà ấy rạng, mạng người nào người ấy giữ". Vì vậy, họ hồn nhiên mời Miến Điện tham dự câu lạc bộ kinh tế này.
Nhưng, thế giới ngày nay đã văn minh hơn nên hết thích làm ăn với các chế độ bóc lột lao động hay đàn áp nhân quyền và gây khó cho ASEAN về nạn độc tài Miến Điện: bầu cử thua mà không chuyển quyền, lại còn bỏ tù đối lập và giam hãm bà Aung San Suu Kyi là điều khó chấp nhận. Vì vậy, ASEAN đành kín đáo "can thiệp nội bộ" Miến Điện, thuyết phục chế độ Ngưỡng Quang (Rangoon) là từ chối vai chủ tịch năm tới để khỏi gây lúng túng cho ASEAN. Hôm Thứ Ba, Ngưỡng Quang giúp ASEAN thở ra nhẹ nhõm khi loan báo quyết định trên!
Giải quyết xong cái truyện ngoài da này rồi, ASEAN tưởng rằng các đại cường sẽ vui vẻ tham dự hội nghị của Diễn đàn An ninh. Lầm to. Vấn đề không nằm ở đấy.
Ngoại trưởng Bắc Kinh có đến Vientiane tham dự Hội nghị cấp Bộ trưởng của ASEAN nhưng sau đó, thay vì ở lại tham dự hội nghị của ARF thì lại qua thăm Miến Điện. Đồng hội đồng thuyền, họ nề hà gì chuyện độc tài của Miến!
Trở lại chuyện an ninh của Diễn đàn An ninh ARF.
Là câu lạc bộ giao dịch kinh tế, các nước Đông Nam Á đã tưởng bở, rằng nhờ sức mạnh kinh tế ASEAN sẽ thành một trung tâm có trọng lượng của Á châu. Họ nói đến việc hợp tác mở rộng và cuối năm 1999 đề xướng ra khuôn khổ ASEAN+3, gồm 10 nước ASEAN và ba nước Đông Á, là Nhật Bản, Trung Quốc và Bắc Hàn. Tưởng mình đã to bằng con bò, vài nước còn muốn lập ra một định chế mới, hoàn toàn Á châu, để thay thế vai trò của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF. Đó là sáng kiến về Quỹ Tiền tệ Á châu AMF của Malaysia thời Mohamad Mahathir làm Thủ tướng. Lý do bên ngoài là để ngăn ngừa một vụ khủng hoảng tài chánh khác, như đã xảy ra năm 1997 làm Thái Lan, Indonesia, Philippines và Malaysia đều khốn đốn. Lý do thực tế là ASEAN muốn trở thành một diễn đàn quốc tế nằm tại tâm điểm châu Á.

Bước qua lãnh vực an ninh, ASEAN lập ra cơ chế ARF, thực chất chỉ là một diễn đàn trao đổi thông tin về an ninh và quân sự, và các chế độ độc tài thì hiểu ngay "thông tin chính là tuyên truyền". Diễn đàn ARF vì vậy chỉ là một diễn đàn bốc phét không có thực lực, chẳng có khả năng cưỡng hành và không giải quyết nổi các vấn đề về an ninh trong khu vực.
Hẹp thì có vụ Indonesia đòi thôn tính Đông Timor khiến Australia nhập cuộc và gây hiềm khích với Jakarta; rộng thì có nạn hải tặc ngoài Đông Á và nhất là tại eo biển Malacca, mà chẳng xứ nào đề ra giải pháp thỏa đáng và ARF bình thản im tiếng. Gần thì có tranh chấp về chủ quyền trên các vùng quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa, kể cả tranh chấp về các giếng dầu giữa Indonesia và Malaysia; xa thì có vụ võ khí nguyên tử của Bắc Hàn hoặc việc Trung Quốc đòi thống hợp Đài Loan bằng võ lực. Rộng lớn hơn cả và bao trùm trên mọi chuyện là nạn khủng bố của các lực lượng Hồi giáo quá khích đang tung hoành tại miền Nam Thái Lan hay Philippines và đã từng ra tay tại Bali của Indonesia. Lâu dài và đáng ngại hơn cả là sự lớn mạnh đầy đe dọa của Trung Quốc.
Kết hợp cả hai chuyện an ninh và kinh tế, thí dụ nhục nhã nhất là các nước ASEAN không tổ chức nổi một hệ thống cảnh báo về động đất và sóng thần, vì ỷ lại vào Hoa Kỳ và Nhật Bản. Họ dư tiền xây cao ốc cao nhất thế giới, nhưng không bỏ tiền mua ổ khóa hay hệ thống báo động. Đó là sự khôn ngoan Á châu.
Các con rồng cọp kinh tế Đông Nam Á chỉ là cọp rơm hổ giấy về những vấn đề an ninh sinh tử cho toàn khu vực và diễn đàn ARF chỉ là cái loa rè.
Chúng ta không chủ quan hay thành kiến mà cho rằng Đông Nam Á chẳng biết lo xa. Họ lo xa theo kiểu khôn ngoan châu Á.
Dư luận lãnh đạo Đông Nam Á luôn luôn có thói quen đả kích Hoa Kỳ và từ 10 năm nay còn ve vãn Trung Quốc. Với họ, Trung Quốc là thị trường béo bở và Bắc Kinh là một tập thể lãnh đạo có thể nói chuyện phải quấy được, theo kiểu phong bì Á châu. Với họ, Hoa Kỳ là tấm giáp hộ thân, nhưng đeo lên mình thì nguy hiểm. Sự khôn ngoan Á châu của các lãnh tụ Đông Nam Á, trừ một ngoại lệ ở Singapore, là kiếm tiền nhờ Trung Quốc, nhưng mua bảo hiểm từ Hoa Kỳ. Quốc gia nào cũng nói theo một giọng - theo giai điệu Bắc Kinh - rằng Á châu là của người Á, và đề cao chủ nghĩa quốc gia của mình trên lưng nước Mỹ. Đến khi Hoa Kỳ rút khỏi hai căn cứ quân sự tại Philippines là Clark Field và Subic Bay - cũng do chủ nghĩa quốc gia nửa mùa của Manila - các nước lại la hoảng rằng Hoa Kỳ để lại một khoảng trống nguy hiểm tại Á châu Thái bình dương. Trong hội nghị ARF năm nay, ASEAN có tham vọng lập ra một Thượng đỉnh Đông Á (East Asian Summit - EAS) quy tụ lãnh đạo các nước Á châu, kể cả Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, nhưng lại không có Hoa Kỳ, vì Á châu vốn của người Á mà.
Vì vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi Ngoại trưởng Condi Rice không phó hội ARF và cũng chẳng ngạc nhiên khi lãnh đạo Đông Nam Á than phiền về quyết định ấy của bà Rice vì để một khoảng trống trên mặt an ninh Đông Á. Có lẽ, bà chỉ muốn Á châu trưởng thành và cư xử như người lớn, tức là phải trả giá cho những mục tiêu hay mơ ước của mình. Thượng đỉnh EAS vì vậy là trò sơ sinh yểu tử.
Chúng ta không ngạc nhiên về những chuyện ấy từ phía Hoa Kỳ, nhưng e ngại.
Vì người Việt Nam hiểu rằng Trung Quốc đang bẻ đũa từng chiếc tại Đông Nam Á, ve vãn từng nước qua các thỏa ước song phương để phá vỡ cái thế đoàn kết Đông Nam Á, mục tiêu nguyên thủy của ASEAN vào năm 1967, khi miền Nam Việt Nam còn ở trên tuyến đầu ngăn ngừa sự bành trướng của Trung Quốc. Có hai điển hình cho việc ấy: trong lục địa thì sông Mekong đang bị họ khai thác tàn tệ, bất kể đến hậu quả cho 60 triệu dân sống tại hạ nguồn; ngoài khơi là vụ khai thác dầu khí trên vùng quần đảo Trường Sa mà Việt Nam và Philipppines đều nhận là của mình, đều bị Bắc Kinh phũ tay chơi bạo và sau cùng đều phải hợp tác với doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc, như Phan Văn Khải đã xác nhận với Ôn Gia Bảo tại Côn Minh!
Trung Quốc coi vùng biển Đông Á là ao nhà, là "biển Trung Hoa tại miền Nam" (Trung Nam hải), và các nước Đông Nam Á là chư hầu trong tương lai. Diễn đàn ARF vì vậy chỉ là tái diễn chuyện nước Tề thời Chiến Quốc - một xứ buôn bán duyên hải như câu lạc bộ ASEAN ngày nay - đã lập diễn đàn thảo luận với cường Tần. Và sau cùng vẫn bị Tần Thủy Hoàng Đế thôn tính trong trò chơi "gồm thâu lục quốc".
Khôn mà thành khốn là như vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.