Hôm nay,  

Thiền Trăng

26/05/200500:00:00(Xem: 6467)
Hành giả lặng lẽ quán sát thân, tâm, cảnh trí trước khi nhẹ nhàng ngồi xuống tọa cụ trong thế kiết già. Bộ áo lụa nâu, mềm và rộng sẽ giúp thân thoải mái. Tâm đã lắng như bể nước mưa, phiền não tuy còn đâu đó nhưng chắc mờ nhạt lắm, tựa bụi bặm tận sâu đáy bể. Căn phòng nhỏ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ, không giường lớn nệm cao, chỉ có tọa cụ trên tấm thảm nhỏ và chiếc bàn con để dăm cuốn sách với ly nước lạnh. Lòng bàn tay phải đặt lên tay trái, hai đầu ngón cái chạm nhau như giao ước cho một thời thiền tĩnh lặng, hành giả lắc vai qua phải, qua trái, phía trước, phía sau, kiểm soát thế ngồi cho thoải mái, xong, khép hờ đôi mắt mới thấy thêm vị khách sẽ theo hành giả cùng vào thiền. Đó là ánh trăng mười bốn len qua song cửa, mềm, nhẹ và thơm ngát hương đêm rằm.
Đêm nay hành giả sẽ quán công án KHÔNG. Chỉ Không thôi, không gì nữa. Có trăng hay không trăng cũng nằm trong Không, có ta hay không ta cũng nằm trong Không, tọa thiền hay không tọa thiền cũng nằm trong Không. Phải hợp nhất vào Không vì rốt ráo, vì tận cùng, vì sâu thẳm, cái chúng sanh miệt mài đi tìm là cái Thường Hằng, cái Sẵn Có, cái Đã Là, Đang Là, Sẽ Là, cái Chưa Từng Đến, Chưa Từng Đi …… gọi cái đó tên gì tùy người tìm kiếm. Cái đó, tự bản thể trong suốt, không biệt phân hý luận mà giải tỏa trùng trùng hý luận, không mầu sắc mà rực rỡ lưu ly, không hương vị mà bát ngát mạn-đà-la mười phương ba cõi. Cái đó là Phật Tánh. Cánh cửa mở ra để thấy được Phật Tánh là Không. Tâm phải được nung đỏ như hòn sắt, chảy ra, hòa vào, hợp nhất với Không tới mức “không cả nghĩ tới Không” mới mong nhận thấy cái vi diệu ta vẫn thường hằng có. Cái đó vẫn ở đó, cùng ta, ngay cả phút giây người đi tìm chợt thấy, nó cũng vẫn Thường Là, chẳng hề biến diệt, đổi thay, thêm bớt. Chỉ có người đi tìm, khi bất chợt thấy được thì sửng sốt, kinh ngạc, nhìn nó như nhìn Thiên Sứ, như nhìn đóa hoa chưa từng thấy, như nghe giòng nhạc chưa từng nghe. Phút giây đó, hốt nhiên vạn hữu chuyển mình, muôn người, muôn loài phủ choàng mầu áo mới, thanh sắc mới, hương vị mới, rực rỡ như chưa từng bao giờ rực rỡ thế. Tất cả, chỉ vì người tìm kiếm bước qua được cửa Không, thấy Chính Mình, thấy cái “Thiên Thượng Thiên Hạ Vô Ngã Độc Tôn”.
Đơn giản tột cùng mà khổ nhọc vô song !
Chẳng thế mà hành giả vẫn thường thất bại, cả những lần hòn-sắt-tâm đã nung được tới cực đỏ mà lơ là một niệm khởi lên, nó lập tức nguội lạnh trong tiếng khóc tức tưởi của người thất bại !
Trăng mười bốn mềm và mát như tơ tằm. Hành giả ơi, sao ông khổ lụy thế ! Hãy để tâm an nhiên, hãy để nó hát khi muốn hát, khóc khi muốn khóc, dạo khi muốn dạo …… vì hành giả đã từng thấy nó rồi, đã từng biết Vọng cũng là Chân thì ngại chi vọng khởi. Hãy để mặc cái vọng tâm dong chơi vì qua sự quán chiếu của hành giả, vọng tâm tất tìm thấy chân tâm. Đó là sát na, vọng tâm bước qua cửa Không và nó sẽ đột nhiên bừng sáng ! Vậy hãy mặc nó.
Đêm nay, hành giả hãy cùng Trăng tọa thiền, hãy lặng thinh, êm ả, hãy như giòng suối trong, hãy như bờ cát trắng, hãy như giải mây bay lãng đãng, như làn gió xôn xao giữa nội cỏ hoa ngàn….. Hành giả đang mỉm cười rồi, Trăng biết, hành giả đang cùng Trăng nghe được giòng nhạc đêm, không phải từ cung trời Đao Lợi đâu, từ ngay cõi ta-bà của hành giả đấy:
“Đá mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi
Ngàn năm vang một nỗi đời
Gió đưa cuộc lữ lên lời viễn phương
Đan sa rã mộng phi thường
Đào tiên trụi lá bên đường tử sinh
Đồng hoang mục tử chung tình
Đăm chiêu dư ảnh nóc đình hạc khô”.
Những mỹ từ được bọn vô minh dụng ý xử dụng để “mị” người chỉ là “ngàn năm vang một nỗi đời” thôi, có hơn gì “đào tiên trụi lá”. Hành giả đừng vội thất vọng vì bên cuộc lữ đó, có những hạt ngọc phủ trong áo tơi:
“Đồng hoang mục tử chung tình
Đăm chiêu dư ảnh nóc đình hạc khô”
Tình người ở nơi gần gũi nhất, lặng thinh nhất, tầm thường nhất, như khi hành giả khổ nhọc quán Không mà Không ở ngay nơi “không gì cả”!
Ly nước lạnh của hành giả còn nguyên trên bàn đây, hãy nhấp một hớp rồi ta thiền tiếp. Bây giờ thì hành giả nghe thấy trước Trăng rồi, tiếng vĩ cầm quyện vào sáo trúc đó:
“ … Ta hỏi kiến nơi nào cõi tịnh
Ngoài hư không có dấu chim bay
Từ tiếng gọi mầu đen đất khổ
Thắp tâm tư thay ánh mặt trời"
Ta gọi kiến, ngập ngừng mây bạc

Đường ta đi, non nước bồi hồi
Bóc quá khứ, thiên thần kinh ngạc
Cắn vô biên trái mộng vỡ đôi …”
A, chính hành giả cũng đang kinh ngạc như thiên thần ư " kinh ngạc vì sự tàn phá thâm hiểm của vô minh, tàn phá từ lòng đất ! đất nuôi người mà đất nhiễm độc hại thì người không phải chỉ bị hủy diệt một đời mà là nhiều đời ! Hãy nhìn chính sách ngu dân và nghèo đói quanh hành giả mà xem, có phải là vô tình mà dân ngu dân đói đâu! Khi kẻ cầm quyền dùng bụng (bao tử) để kiểm soát đầu (trí tuệ) thì không còn bao nhiêu cái đầu có thể làm chủ cái bụng, vì khi bụng lên tiếng khóc, đầu sẽ đầu hàng! Khi đời cha bị hủy diệt trí tuệ thì đời con, đời cháu còn chi !
Chúng ta đi xa thiền quá rồi ư " Không đâu, Trăng nghĩ là ta vẫn đang trong thiền đấy chứ. Tác giả bài thơ mơ màng viết “Ta hỏi kiến nơi nào cõi tịnh "” vậy mà bất ngờ có câu trả lời “Ngoài hư không có dấu chim bay”. Câu trả lời đầy thiền vị, khác chi giai thoại có người đến hỏi thiền sư “Thế nào là đạo"” Thiền sư trả lời: “Gạo ở Lô Lăng giá bao nhiêu"” Hành giả tu thiền thì đã biết rõ dụng ý câu trả lời này rồi, vì nếu thiền sư giảng giải đạo là gì thì người hỏi sẽ lập tức bị cái lưới hý luận ngôn từ phủ chụp xuống, còn biết đâu đường ra để mà quán chiếu; câu trả lời không dính nhập tới câu hỏi mới giúp người đó chặt đứt dòng suy tư mà có thể đón nhận lời chỉ dạy một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Như có vị học giả mang dầy bụng kiến thức tới tham vấn thiền sư chỉ vì tò mò, thiền sư rót nước mời khách, nước tràn ly rồi mà vẫn rót, rót mãi … tới lúc khách không chịu nổi, phải nhắc khẽ : “Thưa ngài, nước đã tràn”, thiền sư mới nhẹ nhàng bảo: “Vâng, tôi biết, cũng như ông, ông đến đây với đầy ắp kiến thức, tôi còn gì để nói nữa"”
Trăng đoán rằng tác giả những câu thơ này vừa ngồi thiền vừa làm thơ. Nếu người ấy không là một thi sỹ thiền sư thì cũng là một thiền giả mang tâm từ bi, cùng khổ với dân khổ, cùng đói với dân đói, nhưng, vượt trên bờ sinh tử, người ấy giữ vững trí tuệ sáng ngời để dẫn dắt chúng sanh:
“…Non nước ấy trầm ngâm từ độ
Lửa rừng khuya yêu xác lá khô
Ta đi tìm trái tim đã vỡ
Đói thời gian, ta gặm hư vô”
À, hành giả đã cảm thấy được an ủi rồi phải không " Trong tuyệt vọng chẳng phải tận cùng tuyệt vọng đâu mà còn có lửa rừng yêu lá khô, có hư vô che chở.
Ly nước của hành giả cạn rồi, có cần rót thêm không" Hành giả lại biết đùa rồi đấy, đòi uống ánh trăng khuya ! Vâng, xin mời, uống trăng rồi, theo với Trăng, hành giả đã thấp thoáng thấy thêm những gì:
“…Đàn cò đứng gập ghềnh không ngủ
Ngóng chân trời con mắt u linh
Chân trời sụp, ngàn cây bóng rủ
Cổng luân hồi mở rộng bình minh”
Trời hỡi, hành giả là Phật tử mà thấy “cổng luân hồi mở rộng” hẳn là đau đớn biết bao cho cõi-người đó ! Nhưng khoan, đừng vội bi thương vì:
“Chờ dứt cơn mưa ta vô rừng
Bồi hồi nghe khói lạnh rưng rưng
Ngàn lau quét nắng lùa lên tóc
Ảo ảnh vô thường, một thoáng chưng !”
Một thoáng chưng. Đêm đã tàn rồi ư"
Hành giả thở mạnh một hơi, dài thật dài. Mở mắt. Trăng không còn nữa, mà là tia nắng sớm. Ly nước trên bàn vẫn đầy như tấm lòng chưa vơi. Phải, hành giả vẫn tự biết lòng này chưa vơi nên dẫu cố gắng vẫn chẳng thể vượt cửa Không bằng tâm của người-ngoại-cuộc. Cuộc đây là cuộc lữ của cả một dân tộc đang vùng vẫy trong lưới vô minh. Đêm nay, có ngờ đâu, với Trăng, hành giả đã vừa bước qua cánh cửa vô hình đó, không bằng công án mà bằng những câu thơ:
“Ta lên bờ, nắng vỗ bờ róc rách
Gió ở đâu, mà sông núi thì thầm"
Kìa bóng cỏ nghiêng mình che hạt cát
Ráng chiều xa, ai thấy mộ sương dầm"”
Hay như:
“Khói ơi, bay thấp xuống đi
Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân
Ta đi trong cõi Vĩnh Hằng
Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần rụng hoa”
Bất cứ khi thơ khóc, thơ đau, thơ nhục, ngay cả khi thơ tự khai là thơ chết mà người đọc, người nghe vẫn nhận ra cả một trời bất tử với ngân nga chuông Bát Nhã, với thấp thoáng bóng Bồ Tát từ bi, với rượi mát từng hạt mưa Cam Lộ.
Đó là gì" Có phải trong mỗi chúng sanh đều sẵn ngôi nhà Phật. Đó là nơi an toàn đầu tiên và cuối cùng cho chúng ta. Tìm ra được nơi an toàn đó, chúng ta sẽ không bao giờ còn sợ hãi trước bất cứ sức mạnh nào bên ngoài.

Tạ ơn Thượng Tọa thích Tuệ Sỹ, tác giả những giòng thơ rực lửa-bản-thể đã đốt đuốc cho chúng ta thấy đường tìm về nhà Phật.
Diệu Trân
Tháng 5, 2005
Mùa Phật Đản lần thứ 2629

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 2025 là một năm sôi động của khoa học, khi những bước tiến lớn đã được thực hiện trong nhiều lĩnh vực, từ y học, thiên văn, khảo cổ đến công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Những phát hiện và sự kiện này không chỉ mở rộng hiểu biết của con người về thế giới, mà còn đặt ra nhiều câu hỏi mới, thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ trong tương lai.
Ở Hoa Kỳ, khoa học xưa nay hiếm khi giành hàng tít lớn trên báo, cho dù ngân sách nghiên cứu suốt nhiều thập niên vẫn vững vàng qua mọi triều tổng thống như một thứ “quốc ước bất thành văn” về tri thức thuần túy. Năm 2025, khúc quân hành êm ả đó bỗng khựng lại: chính quyền Donald Trump, trở lại Nhà Trắng với nghị trình cải tổ khoa học và kỹ nghệ theo hướng ý thức hệ, đã kéo chính sách khoa học từ trang trong ra thẳng trang nhất.
Thuế quan — thứ từng vắng bóng trên mặt báo suốt nhiều thập niên — nay trở lại trung tâm chính sách kinh tế Hoa Kỳ, trong lúc Tối Cao Pháp Viện đang xét tính hợp hiến của các mức thuế toàn cầu do Tổng thống Donald Trump ban hành. Bài viết dưới đây, theo phân tích của Kent Jones, giáo sư kinh tế danh dự Đại học Babson, đăng trên The Conversation ngày 11 tháng 12 năm 2025, nhằm giải thích cặn kẽ thuế quan là gì, ai thực sự gánh chịu, và vì sao vấn đề này đang tác động trực tiếp đến túi tiền và tương lai kinh tế nước Mỹ. Thuế quan, nói gọn, là thuế đánh lên hàng hóa nhập cảng. Khi một công ty Hoa Kỳ nhập hàng từ nước ngoài, Cơ quan Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ sẽ gửi hóa đơn thuế; doanh nghiệp phải nộp đủ thì hàng mới được thông quan. Trên giấy tờ, người trả thuế là nhà nhập cảng. Nhưng trên thực tế, phần lớn chi phí ấy được chuyển thẳng sang người tiêu dùng qua giá bán cao hơn — từ thực phẩm, xe cộ cho đến quà tặng cuối năm.
Vào những ngày cuối tháng Tám của năm 2025, tôi cùng hai đồng nghiệp đã quyết định từ bỏ chức vụ tại Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC). Chúng tôi ra đi vì không thể tiếp tục im lặng khi chứng kiến tính liêm chính khoa học ngày một xói mòn, còn cơ sở hạ tầng y tế công cộng của quốc gia cứ dần rệu rã dưới sự lãnh đạo của Robert F. Kennedy Jr., Bộ trưởng Bộ Y tế và Nhân sinh (HHS). Khi đó, chúng tôi đã khẩn thiết kêu gọi Quốc Hội, các tổ chức chuyên ngành và các bên liên quan trong lĩnh vực y tế công cộng hãy can thiệp trước khi xảy ra những thiệt hại không thể cứu vãn. Tôi rời đi với niềm tin mọi thứ rồi sẽ được chấn chỉnh.
Khi nhìn bản đồ thế giới và duyệt xét lịch sử hình thành, chúng ta nhận thấy có rất nhiều điểm tương đồng giữa Canada và Úc Đại Lợi.
Người Việt miền Nam từng trải qua một bài học cay đắng: sau 1975, những lời nói về “thống nhất” và “hàn gắn” không bao giờ đi cùng sự nhìn nhận. Không một lời chính thức nào nhắc đến các trại cải tạo, những cuộc tước đoạt, hay những đời sống bị đảo lộn dưới tay những người nhân danh chiến thắng. Không có sự thật, hòa giải chỉ là chiếc khẩu hiệu rỗng. Câu chuyện nước Mỹ hôm nay, khi chính quyền muốn làm mờ các chứng tích về chế độ nô lệ, cho thấy một điều quen thuộc: không quốc gia nào trưởng thành bằng cách giấu đi phần tối. Sự thật không tự biến mất chỉ vì người ta muốn quên.
Hai mươi năm trước, Thống đốc Jeb Bush ký đạo luật “stand your ground” (đứng vững tại chỗ), được giới ủng hộ xem là một biện pháp chống tội phạm dựa trên “lý lẽ thường tình”. Lời hứa khi ấy: bảo vệ người dân tuân thủ pháp luật khi họ dùng vũ lực để tự vệ. Sau vụ George Zimmerman được tha trong cái chết của Trayvon Martin, đồng bảo trợ dự luật, dân biểu Dennis Baxley, vẫn bảo rằng “trao quyền” cho người dân sẽ giúp chặn bạo lực.
“Di sản, còn có thể mang hình thức phi vật thể của lối nghĩ, lối sống, lối hành động, mà con người miền Nam khi xưa đã được trau dồi, hun đúc qua tinh thần của thể chế, của một nền dân chủ hiến định. Chính con người, chính cộng đồng xã hội mới là trung tâm và cũng là cội nguồn lẫn mục đích của mọi bản hiến pháp.” – Hải Sa, “Ngót 60 năm từ một khế ước nhân quyền dang dở,” trang 56 Cùng với tin tạp chí Luật Khoa vừa được đề cử giải thưởng Tự Do Báo Chí năm 2025 của Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, ban chủ trương trong một thư tới độc giả vào cuối tháng 10 đồng thời thông báo việc phát hành ấn bản đặc biệt với chủ đề “70 Năm Việt Nam Cộng Hòa – Chân Dung & Di Sản” gồm 86 trang, với 14 bài vẽ lại hành trình từ ra đời tới bị bức tử của nền dân chủ duy nhất của Việt Nam và di sản của thể chế yểu mệnh này để lại. Bài này nhằm điểm qua nội dung của ấn bản đặc biệt này, và sẽ chú trọng vào một bài đã gợi nơi người viết một suy tư sâu sắc.
Một nhóm sử gia, thủ thư và tình nguyện viên đang gấp rút chạy đua với thời gian – và với chính quyền Trump – để giữ lại những mảnh ký ức của nước Mỹ.Từ hình ảnh người nô lệ bị đánh đập, các trại giam người Mỹ gốc Nhật trong Thế Chiến II, đến những bảng chỉ dẫn về biến đổi khí hậu ở công viên quốc gia, tất cả đều có thể sớm biến mất khỏi tầm mắt công chúng. Trong vài tháng gần đây, hơn một ngàn sáu trăm người – giáo sư, sinh viên, nhà khoa học, thủ thư – đã âm thầm chụp lại từng góc trưng bày, từng bảng giải thích, để lập ra một kho lưu trữ riêng tư. Họ gọi đó là “bản ghi của công dân” – một bộ sưu tập độc lập nhằm bảo tồn những gì đang tồn tại, trước khi bị xoá bỏ bởi lệnh mới của chính quyền.
Hai trăm mười một năm trước, mùa hè năm 1814, quân Anh kéo vào Washington. Trước khi phóng hỏa Bạch Ốc, họ ngồi xuống dùng bữa tại bàn tiệc đã dọn sẵn cho Tổng thống James Madison. Khi bữa ăn kết thúc, lính Anh đốt màn, đốt giường, và tòa nhà bốc cháy suốt đêm. Sáng hôm sau, cơn mưa lớn chỉ còn rửa trôi phần tro tàn của nơi từng là biểu tượng cho nền cộng hòa non trẻ. Tuần này, phần Cánh Đông của Bạch Ốc bị phá sập. Không phải bởi ngoại bang, mà bởi chính quyền tại vị. Và lần này, không ai được báo trước. Người Mỹ chỉ biết chuyện qua những bức ảnh máy xúc cày nát nền nhà, cùng lời xác nhận ngắn ngủi từ các viên chức trong chính phủ.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.