Hôm nay,  

Vô Thường

22/01/200300:00:00(Xem: 6175)
Năm nay trời đất có nhiều dấu hiệu lạ.Vào những ngày năm cùng tháng tận, thời tiết trở ấm bất thường. Nhiều hôm đạt kỷ lục. Ấm tới 50 độ F, hơn bình thường 15 độ. Trước đó, hầu như mùa thu đã chết (1). Mùa mà mọi người chờ đợi để mong "cảm cái lạnh se sẻ của bầu trời trong xanh, để ngắm sự trở màu của cây lá ở các khu rừng, để thì thầm:Em nghe chăng mùa thu, Lá thu kêu xào xạc, Con nai vàng ngơ ngác, Đạp trên lá vàng khô (2) hay để hỏi: Thu về em đã gặp Thu chưa (3)", đã không hề thấy xảy ra. Thật vậyï, chỉ có một bước nhảy vọt, từ hè sang đông, từ nóng bức sang lạnh giá. Và rừng thu thì vang vọng tiếng súng của hàng trăm ngàn tay săn.
Bắn gục một con nai vàng đang soi bóng bên bờ suối, một hình ảnh thô bạo. Thế nhưng, đó là một giải pháp được khuyến khích. Lý do làhươu nai sinh sản nhiều quá. Loài dê có khác. Chúng còn đe dọa gieo rắc bệnh dịch như bệnh bò dại ở bên Anh. Năm 1900 nước Mỹ chỉ có dưới một triệu. Hiện con số này lên đến gần 29 triệu con. Chúng chạy lông ngông khắp nơi, phá làng, phá xóm, phá vườn tược, hoa màu. Mùa đông chúng còn táo tợn xông vào các nhà ở thôn quê để kiếm ăn. Thống kê cho biết, cả triệu con bị xe cán chết hàng năm, gây cho cả trăm người chết .Tổn hại vật chất đến cả tỉ đô la. Riêng tại Minnesota có 15,000 con nai bị xe tông; trên 200,000 con bị bắn hạ. Toàn tiểu bang này có 800,000 con.
"Hit and run" là một điều cấm kỵ. Chẳng may húc phải một nàng nai tơ thì sao" Nếu không hề gì thì cứ việc đường ta ta cứ đi. Lỡ hit thìø cứ run. Phải chăng loài thú thuộc đẳng cấp thấp kém so với loài người" Cũng xương, cũng thịt, máu cũng đỏ vậy. Hàng ngày có biết bao chim chóc, hươu nai, chồn, cáo, sóc, thỏ phơi thây ở các xa lộ" Xe cán chó có gì là quan trọng. Chưa thấy một ông cảnh sát nào làm biên bản về vụ một con vịt bị cán chết bấy. Tôi nhớ đọc đâu đó hàng năm có hơn bốn triệu con bị xe tông chết, bị cán nhầy nhụa, máu me be bét ở các con đường trên toàn nước Mỹ. Có vị nào trải qua kinh nghiệm cán phải một con vật chưa"
Chuyệân hai con chim
Tôi không tông phải nai nhưng có hai lần xe tôi đụng hai con chim. Lần thứ nhất vào một hôm đầu xuân cách đây mấy năm. Hết tuyết, hết lạnh. Vào sở, nhìn qua khung cửa sổ thấy cảnh vật rạng rỡ. Cây cối bắt đầu đâm chồi nẩy lộc. Màu xanh của cây cỏ chan hòa khắp nơi. Nắng ấm long lanh. Tiết xuân phơi phới, tươi mát. Chim, sóc nhảy hót từ cành này sang cành khác, hớn hở. Thiên nhiên như mời gọi. Máu giang hồ vặt lại nổi lên. Tôi lấy xe lái đi vòng vòng, chầm chậm. Hết đường này sang đường khác, cả giờ, rồi ra ngoại ô.
Đồng trống. Đường vắng. Trời xanh mây trắng, Một buổi sáng thật dể chịu, êm ả. Trước mặt, một đàn chim đang nô đùa ở giữa lộ. Xe trờ tới. Cả đàn bay vút lên. Một con va vào xe. Qua kính chiếu hậu tôi thấy một vật đen đen nằm ở bên đường. Xuống xe, tới gần. Một con chim sẻ mắt nhắm, thoi thóp. Aáp trong long bàn tay, tôi còn cảm thấy hơi ấm ấm của nó tỏa ra. Một lúc rồi xụi lơ, lạnh dần. Tôi đã làm chết một con chim. Tôi tự trách, nếu cứ ngồi ở sở làm việc, nhâm nhi cà phê thưởng xuân thì đâu có can tộâi sát sanh" Làm gì bây giờ" Đem nó về nha,ø ra chôn ở gốc cây. Vừa làm vừa sợ hàng xóm biết; họ sẽ cười cho.
Lần thứ nhì vào mùa hè năm nay. Đưa con đi học tiếng Việt. Con cắp sách đến lớp. Cha mang sách về sau buổi học. Cứ thế, đều đặn. Một lần vừa vô tới nhà thìø tôi mới sực nhớ là để quên đâu đó trong chùa mấy cuốn sách mà con tôi trao cho tôi. Vội vàng lái trở lại chùa. Trên đường một đàn chim bay vút qua. Tôi nghe một tiếng sọat. Một vật đen lù lù nằm trên lộ. Tấp xe vào lề. Một con chim, đuôi dài, lông màu xanh rất đẹp, nằm bất động. Cái quên không làm chết người nhưng làm chết một con vật. Nếu không quay lại chùa thì con chim này đâu có tông vào xe. Đem về nhà. Lại nhìn trước nhìn sau không thấy ai, chôn con chim, ngay chỗ con chim năm trước. Thế là hai con có đôi có bạn; không lẻ loi một mình.

Sự sống và sự chết
Thường thường có sự sống nằm trong sự chết. Theo đài Á Châu Tự Do, trong một bài đặc ký, tại Tây Tạng, xác người chết được cắt thành miếng nhỏ, ném cho chim ưng ăn. Đám tang điểu táng, theo truyền thống Tây Tạng diễn ra như vậy. Dân Tây Tạng tin tưởng là làm thế, người chết sẽ bớt nghiệp chướng để kiếp sau được nhiều phúc hơn. Người tổ chức tang lễ nói rằng hàng ngày, cứ đến giờ ăn là các chim thiêng bay tới. Xương của ngưồi qua đời được đem đập vụn trong khi những miếng thịt từ cái xác cắt ra, trộn với bột, trứng, và rau thơm để chim thiêng thêm ngon miệng.
Anh Tenor Taring làm việc trong ban tiếng Tây Tạng của Đài Á Châu Tự Do giải thích rằng, phong tục này liên quan đến đạo Phật truyền thống của người Tây Tạng, dạy là hãy luôn làm điều ích lợi. Thân xác ta chỉ là thịt xương, không có ích gì sau khi chết đi. Cho chim ưng ăn thì có ích hơn. Anh Taring cho biết là dân Tây Tạng, có tới 90% theo tục lệ đó. Họ hàng người chết đi theo đám tang ra ngoài núi, chứ gia đình không đi. Anh nói tiếp là anh từng thấy cảnh đem xác người cho chim ưng ăn. Xác để trên tảng đá, phu nhà đòn tới cắt thành những miếng nhỏ, đem xương ra đập vụn cho chim ưng dễ ăn hơn.
Về cái chết của hai con chim tôi chẳng thấy có sự sống nằm trong sự chết. Cũng chẳng phải lỗi tại tôi mọi đàng. Nó có vẻ phi lý và tình cờ. Người Mỹ thường hay nói wrong place, wrong time hay right place, right time cho những sư việc không thể giải thích được. Vì ham ngắm trời đất,ø quên trước quên sau, nếu tôi đi lối khác, chậm hay nhanh hơn, đâu có ra cơ sự" Ngược lại, tôi có một người cháu, Hoàng Phan Nam Phương, làm việc cho hãng Fred Alger & Co Inc., ở World Trade Center, New York. Ngày 11 tháng 9 năm ngoái, quên thẻ an ninh vô cửa, cô phải nán lại lầu một làm thủ tục thì khủng bố 9/11 xảy ra. Nhờ ở tầng trệt, côõ kịp thoát ra ngoài. Toàn thể đồng nghiệp trên tầng lầu 93 chết hết; trong đó có người bạn Phạm Tú Anh, 42 tuổi, mới đi làm lại một ngày sau sáu tuần nghỉ hộ sản cho đứa con đầu lòng.
Hiện tại tuyệt vời
Hòa thượng Thích Trí Siêu trong tập Vô Ngã cho rằng đa số Phật tử đến với đạo Phật đều biết và công nhận đời là vô thường. Biết là vô thường, nhưng thấy được vô thường là một chuyện khác. Theo Hòa Thượng có một loại "sát na vô thường", tức sự biến chuyển sinh diệt trong từng giây phút. Chúng ta ngoài miệng nói vô thường nhưng trong thâm tâm thì lại cho sự vật rất là thường (tức luôn luôn là như vậy, không thay đổi, không biến chuyển, sinh diệt). Hòa thượng viết, "thực tướng của sự vật là vô thường. Nếu thấy rõ vô thường thì ta sẽ sống tự tại và luôn luôn hỹ xa"û.
Khó quá. Làm sao ngộ được điều này" Thế gian thì lắm chuyện. Sinh sự và sự sinh. May rũi, rũi may, có có, không không, đủ thứ. Lại thêm, tham, sân, si, và nhiều thóiù hư , tật xấu thường tình khác. Dù rằng đã trải qua bao cuộc bể dâu, tị nạn tôi vẫn thấy cái bóng của bất trắc, đổ nát, chiến tranh là một đe dọa lớn, bao trùm, ảnh hưởng mọi sinh hoạt. Vậy, hãy nắm giữ lấy cái Hiện Tại Tuyệt Vời; An lạc từng bước chân (4): sống thực, yêu đời, yêu người vì Cuộc Đời Đó Có Bao Lâu Mà Hững Hờ"(5)
Cuối năm đem chuyện may rủi, chim chóc ra tán hưu tán nai thì thiệt là "vô thường". Phải không quí vị"
Saint Paul.
12/02.
*1:Phạm Duy; 2: Lưu Trọng Lưu; 3:Đinh Hùng; 4: Thích Nhất Hạnh; 5: Trinh Công Sơn.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.